Giải Nobel vật lư năm
2003 được trao cho 3 nhà vật lư là Aleksei A. Abrikosov (hiện đang làm
việc tại Pḥng thí nghiệm Quốc gia Argonne, Illinoi, Mỹ), Vitalii L.
Ginzburg (hiện đang làm việc tại Viện Vật lư Lêbêđép, Viện Hàn lâm
Khoa học LB Nga) và Anthonny J. Leggett (hiện là Giáo sư Đại học Tổng
hợp Illinois, Mỹ) "v́ những đóng góp có tính tiên phong đối với các lư
thuyết về hiện tượng siêu dẫn (Superconductivity) và siêu chảy (Superfluidity)".
Hiện tượng siêu dẫn là
hiện tượng điện trở của một số vật rắn đột ngột mất hẳn khi nhiệt độ
của chúng giảm xuống dưới một ngưỡng nhất định (gọi là nhiệt độ tới
hạn). Hiện tượng siêu dẫn có ư nghĩa vô cùng to lớn đối với khoa học
và công nghiệp hiện đại. Có thể nêu ra những ví dụ như: truyền tải
điện năng và dữ liệu không có tổn hao; nam châm siêu dẫn với từ trường
siêu mạnh; cảm biến siêu nhạy dựa trên hiện tượng giao thoa lượng tử;
máy chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI-Magnetic Resonance Imaging). Hai
nhà sáng chế ra máy chụp cộng hưởng từ hạt nhân năm nay cũng được nhận
giải thưởng Nobel, nhưng về sinh học và y học. Một trong những ứng
dụng gây ấn tượng nhất của hiện tượng siêu dẫn- đó là những xe lửa
siêu tốc chạy trên đệm từ, hoạt động dựa trên hiệu ứng Meissner, c̣n
gọi là hiệu ứng bay lơ lửng trong từ trường.
Hiện tượng siêu chảy
là hiện tượng độ nhớt của một số chất lỏng giảm đột ngột về 0 ở nhiệt
độ rất thấp. Kết quả là chất lỏng đó có thể chảy hoàn toàn tự do mà
không hề chịu một sức cản nào. Việc khảo sát hiện tượng siêu chảy cho
phép đi sâu nghiên cứu những quá tŕnh xảy ra bên trong vật chất khi
nó ở trạng thái có năng lượng thấp nhất và có trật tự cao nhất.
Lịch sử của cả hai
hiện tượng được giải Nobel năm nay đều được khởi đầu cùng với việc hoá
lỏng thành công chất khí Hêli vào năm 1908, tại pḥng thí nghiệm của
H. Kamerlingh-Onnes ở Leiden (Hà Lan). Hầu như trong suốt 15 năm sau
đó, pḥng thí nghiệm này đă là nơi duy nhất có thể chế tạo được Hêli
lỏng và có thể tiến hành những nghiên cứu trong lĩnh vực nhiệt độ thấp
từ 4,20K đến 770K. Năm 1911, Kamerlingh-Onnes và các cộng sự đă phát
hiện thấy điện trở của thủy ngân giảm đột ngột về 0 khi nhiệt độ của
nó xấp xỉ nhiệt độ sôi của Hêli. Hai năm sau, Kamerlingh-Onnes đă được
trao giải thưởng Nobel về vật lư v́ phát minh này. Cho đến nay, người
ta đă phát hiện thấy nhiều vật liệu siêu dẫn ở dạng hợp kim hoặc dạng
gốm có nhiệt độ tới hạn khác nhau. Các chất siêu dẫn được chia làm hai
loại: loại I và loại II. ở trạng thái siêu dẫn, các chất siêu dẫn loại
I hoàn toàn không cho từ trường thấm sâu qua bề mặt của nó để vào bên
trong và là một chất nghịch từ lư tưởng. Chất siêu dẫn loại II chấp
nhận sự hiện diện đồng thời của trạng thái siêu dẫn và từ trường mạnh.
Loại này có nhiều ứng dụng kỹ thuật quan trọng. Lư thuyết giải thích
hiệu ứng siêu dẫn của chất siêu dẫn loại I được ba nhà vật lư người Mỹ
là J. Bardeen, L.N. Cooper, R.J. Schrieffer đưa ra năm 1957. Theo lư
thuyết của BCS (gọi theo ba chữ đầu của tên các tác giả) th́ nguyên
nhân làm xuất hiện hiệu ứng siêu dẫn là do hiện tượng ghép đôi
electron trong chất siêu dẫn loại I ở nhiệt độ thấp. Sự ghép đôi
electron này xảy ra được là nhờ tương tác của các electron với mạng
tinh thể, v́ các electron mang điện cùng dấu nên b́nh thường không thể
kết thành một đôi được. Cặp electron đó sẽ có spin nguyên, có khả năng
ngưng kết ở trạng thái lượng tử có mức năng lượng thấp nhất. Trong
trạng thái siêu dẫn, các electron ghép đôi khi di chuyển bên trong
tinh thể sẽ không tương tác với các nút mạng, nghĩa là chất siêu dẫn
khi đó chuyển tải ḍng điện mà không có điện trở. Năm 1972, J. Bardeen,
L.N. Cooper, R.J. Schrieffer đă được trao giải Nobel về vật lư. Tuy
nhiên, lư thuyết BCS không giải thích được cơ chế hiệu ứng siêu dẫn
trong các chất siêu dẫn loại II, v́ các electron ghép đôi sẽ phải đẩy
từ trường ra khỏi khối chất siêu dẫn.
Hiện tượng siêu chảy
của Hêli được phát minh năm 1938. Khi hạ nhiệt độ của Hêli lỏng đến
dưới 2,20K, trong chất Hêli lỏng xuất hiện một pha mới gọi là pha Hêli
siêu chảy, hay Hêli II (để phân biệt với Hêli I là Hêli lỏng ở trạng
thái b́nh thường, không siêu chảy). Đặc điểm nổi bật của Hêli II là độ
nhớt của nó bằng không, nghĩa là nó hoàn toàn không chịu ma sát với
thành ống mà nó chảy qua. Người ta đă làm thí nghiệm đo độ nhớt của
Hêli II bằng cách cho nó chảy qua một khe hẹp có chiều rộng chỉ bằng
0,5(m được tạo bởi hai tấm thuỷ tinh phẳng đă mài nhẵn, nhưng ngay cả
trong điều kiện đó cũng không hề phát hiện thấy Hêli II có một chút độ
nhớt nào, tức là Hêli siêu chảy có thể chảy qua khe hẹp một cách hoàn
toàn tự do. Hiện tượng siêu chảy được giải thích dựa trên những tính
chất đặc biệt của Hêli ở trạng thái lỏng: Hêli lỏng là một chất lỏng
đặc biệt, chất lỏng lượng tử mà mỗi hạt của nó, nguyên tử đồng vị
He-4, là một hạt có spin nguyên (trong tự nhiên, đồng vị He-4 chiếm
hầu như 100% thành phần của Hêli; đồng vị He-3 chỉ chiếm có 0,0001%).
Trong những điều kiện nhất định, các hạt có spin nguyên có thể bị
ngưng kết ở trạng thái với năng lượng thấp nhất và khi đó chúng sẽ
không trao đổi năng, xung lượng với bên ngoài, có nghĩa là sẽ không
chịu ma sát và ở vào trạng thái siêu chảy. Theo lư thuyết này, He-3 ở
trạng thái lỏng không thể là một chất siêu chảy, v́ nguyên tử đồng vị
He-3 có spin bán nguyên.
Nguồn: Physics Today,
11/2003