Lịch Sử Việt Nam
Phạm Quân Khanh

Chương Một : Khái lược về nhân văn
I. Đại Cương Về
Người Việt
Ạ. Nhân chủng
Người Việt có màu
da ngà và đa số có máu loại O và RH+ (rê giút dương) (80%); có nhiều huyết sắc
E nên cơ thể có sức chịu đựng bền bỉ và thích ứng dễ dàng với các loại thời
khí cùng các thực phẩm khác biệt.
Râu và tóc đen, tiết diện tṛn nên có
dáng thẳng. Về già, râu tóc đổi thành mầu bạc (trắng).
Mắt có dáng
ngang, hơi chéo lên ở phía dưới mi mắt dưới. Độ chéo ở đuôi mắt đối với đường
ngang từ đầu mắt trung b́nh từ 3 độ tới 5 đô.. Con ngươi thường có mầu đen
hoặc nâu sậm. Mi mắt dưới có bầu dài theo mắt (gọi là ngoạ tầm) (chi tiết này
là một trong các đặc điểm nhân chủng của người Việt). Mí mắt trên có hai mí.
Độ dầy căn bản của mắt bằng độ phẳng hợp bởi xương mi và xương g̣ má.
Khuôn mặt có cằm trung b́nh, xương hàm không tọ Đa số người Việt có sống mũi
hơi trũng (gẫy) ở khoảng ngang hai mắt. Hệ thống xương đầu có chỉ số 80 (đầu
tṛn).
Các trẻ em mới sinh có bớt mầu chàm ở lưng, từ khoảng ngang thắt
lưng tới vùng cuối xương sống (chi tiết này cũng là một trong các đặc điểm
nhân chủng của người Việt).
Người Việt có môi thuộc loại có nét (vành
môi rơ rệt) và độ dầy trung b́nh, môi dưới thường nhỉnh hơn môi trên. Độ dầy
trung b́nh bằng 1/4 bề ngang (chiều rộng của miệng ngậm).
Răng to và
dài vừa phảị Bề mặt bộ răng thường xếp không phẳng. Từ đầu thế kư? 20 trở về
trước hầu hết dân Việt nhuộm răng đen.
Người Việt có dáng điệu b́nh
thản và tinh nhanh. Khổ người trung b́nh, bề cao của nam giới khoảng 1 thước
65 và nữ giới khoảng 1 thước 58. Bề cao thay đổi tuỳ điều kưện sinh hoạt và ẩm
thực.
B. Y phục, di chuyển và thực phẩm
Y phục của người Việt
thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh sinh hoạt và địa lư.
Từ đầu thế kư?
20 trở về trước, thường ngày đa số dân chúng mặc quần, áo ngắn, gọn gàng, mầu
xẫm gần với mầu đất, mầu vỏ cây hoặc lá. Đội đầu gồm có khăn và nón. Trong các
lễ nghi, y phục thường dài, rô.ng.
Di chuyển trên bộ thường đi chân,
cưỡi ngựa hoặc dùng xe kéo bằng trâu, ḅ hay ngựạ Cũng có khi dùng cáng, kưệu
do người khiêng.
Trên nước di chuyển bằng thuyền. Có nhiều loại thuyền,
thường thường làm bằng tre và gỗ. Loại thuyền gỗ bọc đồng dùng cho quân độị
Kiểu thuyền tuỳ thuộc vào nhu cầu và diện tích của vùng nước (sông hay biển).
Y phục và phương tiện di chuyển thay đổi nhiều từ khi Việt nam tiếp xúc với
các quốc gia kư~ nghệ Âu Mỹ, nhưng v́ dân chúng Việt nam sống trong hoàn cảnh
kỹ thuật chậm tiến và nghèo khó nên các loại phương tiện hiện đại không được
đầy đủ. Thực phẩm chính của người Việt là lúa gạọ Trong bữa ăn hàng ngày, cơm
là thức ăn chính rồi kế tiếp là nước mắm, rau, cá, thịt ...
C. Trí Tuệ
Người Việt có đời sống tâm linh cao. Quư trọng đạo đức hơn vật chất. Biết quân
b́nh t́nh và lư. Thông minh, trí nhớ bền; có khả năng thích ứng với mọi hoàn
cảnh. Người Việt nói cùng một thứ ngôn ngữ tiếng Việt nhưng thay đổi đôi chút
tuỳ theo không gian (địa phương) và thời gian.
II. Địa lư và quốc hiệu
Diện tích lănh thổ và quốc hiệu thay đổi nhiều lần trong lịch sử dân Việt.
Địa bàn sinh hoạt căn bản là vùng châu thổ Bắc Việt, định giới bởi Bắc Sơn và
Hoà B́nh.
Vào niên đại vua Kinh Dương, năm 2879 tr.D.L., với quốc hiệu
Xích Quỷ, địa bàn quốc gia rộng lớn, phía bắc tới sông Dương tử (cả vùng hồ
Động Đ́nh), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một
phần của Thái B́nh Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, thuộc nước Tàu ngày
nay). Về sau do sự lấn áp vơ dơng của du mục Hoa tộc, Việt tộc lui dần về địa
bàn gốc. Đánh dấu bằng các niên đại vua Hùng với tên nước là Văn Lang. Năm
chót của niên đại này là năm 257 tr.D.L. Rồi tên nước liên tiếp thay đổi và
địa bàn quốc gia bành trướng về phía nam. Tên nước gọi là Việt Nam có từ năm
1802. Địa bàn quốc gia hiện tại, bắc giáp Trung Hoa, nam là mỏm Cà Mâu giáp
biển đông, tây giáp Ai Lao và Cam Bốt, đông giáp biển đông.
III. Đại
cương về văn hóa Việt tộc
Việt Nam là một nước văn hiến từ lâu. Văn hoá Việt đă đạt
mức cao cả từ xa xưa nên đủ uy lực để bảo tồn được Việt tính và giữ vững sự
trường tồn của dân tộc. Văn minh Việt là nền văn minh nhân tính, đó là đặc
trưng của văn minh nông nghiệp. Lư chính của văn hoá Việt là tâm linh, là sự
quân b́nh t́nh lư. Văn hoá Việt là nền văn hoá nhân chủ, đạt được ư thức hoà
giữa người, trời và đất. Đạt được lư nhân hoà, thích ứng được siêu nhiên và cụ
thể. Nhưng sau nhiều thăng trầm của lịch sử, lớp vỏ của nền văn hoá Việt đă bị
sứt mẻ bởi các nền văn minh du mục phương bắc và văn minh phù động tây phương
cố sức đập phá, tuy vậy sự phá phách này chỉ mới làm sứt mẻ được lớp vỏ mà
thôi.
Chương Hai
I.
Thời đại Thái cổ (trước Thế Kỉ 29 tr.D.L.)
Từ thời rất
xa xưa có những bộ lạc cư trú tại vùng bao quanh châu thổ sông Hồng. Lúc đó
châu thổ c̣n là vịnh biển, mực nước cao hơn hiện nay 50 thước. Các bộ lạc tiền
sử sống rải rác trên vùng cao (có mức thấp nhất là cao hơn mức nước biển hiện
tại 50 thước), từ bắc Trường Sơn tới Hoàng Lyên Sơn và bao ra biển ở các rặng
Bắc Sơn, Ngân Sơn và quanh các nơi có cuồng lưu nước ngọt. Khoảng thời gian đó
cách nay chừng một triệu năm. Măi về sau có hai trung tâm phát triển mạnh là
Hoà B́nh và Bắc Sơn. Thời gian ấy cách nay khoảng từ 60 ngàn năm tới 40 ngàn
năm.
Các người tiền sử sống bằng săn thú và hải sản. Phương tiện lúc
đầu là tay chân, sau biết dùng xương thú vật làm tăng khả năng của tay để phát
triển lượng số thực phẩm. Dần dần người tiền sử biết dùng lửa, nhờ đó đời sống
quy củ hơn.
Khi nước biển rút dần tới mức hiện tại khoảng chừng 40 ngàn
năm trước các bộ lạc tiền sử bỏ dần vùng cao và tụ tập hợp sinh tại vùng châu
thổ sông Hồng. Lúc đầu vùng châu thổ c̣n nhiều đầm lầy, rừng rậm và hầu hết
mặt đất chưa ráo nước, người tiền sử vẫn phải sống bằng săn thú và hải sản.
Khi đất đồng bằng đủ vững, các bộ lạc này sống bằng trồng tỉa, sau biết trồng
lúa gạọ Đó là thời kỳ mở đầu cho nông nghiệp; văn minh nông nghiệp manh nha.
Trong suốt thời gian hợp sinh tại châu thổ khoảng 40 ngàn năm trước các bộ lạc
tiền sử tương giao trong khoảng thời gian chừng 30 ngàn năm rồi h́nh thành một
chủng tộc là Việt tộc. Việt tộc đă tạo nên nền văn minh nông nghiệp đầu tiên
trên thế giới khoảng 15 ngàn năm trước dương lịch (văn minh Hoà B́nh: đồ đá
khoảng 20 ngàn năm trước dương lịch nông nghiệp khoảng 15 ngàn năm tr.D.L. đồ
gốm khoảng trước 10 ngàn năm tr.D.L.). Địa bàn căn bản là châu thổ sông Hồng.
Văn hoá Việt đă được xây dựng dần dần để trở thành nền văn hoá tâm linh và dân
Việt là một dân tộc văn hiến từ xa xưa.
II. Thời đại Hồng Bàng (2879
tr.D.L. 257 tr.D.L.)
A. Huyền sử
Theo truyền
thuyết th́ vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, nhân đi xuống phương nam,
tới núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam, ngày nay thuộc nước Tàu) th́ gặp một nàng
tiên, lấy nhau đẻ ra Đế Nghi và Lộc Tục. Về sau Đế Nghi được làm vua phương
bắc và Lộc Tục làm vua phương nam. Lộc Tục lấy hiệu Kinh Dương và đặt tên nước
là Xích Quỷ, vào khoảng 30 thế kư? trước dương li.ch. Địa bàn quốc gia lúc đó
rất rộng lớn, gồm hồ Động Đ́nh ở phía bắc và phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm
Thành), phía tây tới Ba Thục, phía đông tới biển Đông.
Vua Kinh Dương
lấy Long Nữ, sinh ra Sùng Lăm. Khi Sùng Lăm lên ngôi, lấy hiệu Lạc Long Quân
và kết hôn với Âu Cơ, rồi sinh một bọc trăm trứng. Ít lâu sau, Lạc Long Quân
nói với Âu Cơ rằng:"Ta thuộc ḍng dơi rồng, nàng thuộc ḍng dơi tiên, ở măi
với nhau không được, vậy nàng mang 50 con lên núi, c̣n ta đem 50 con xuống
biển nam". Tới Phong Châu, mẹ Âu Cơ phong cho con trưởng lên ngôi vua lấy hiệu
vua Hùng và đặt tên đất là Văn Lang.
B. Sử kư
Vị vua đầu tiên
của nước Văn Lang là vua Hùng, địa giới gồm Bắc Việt và các tỉnh Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh. Vua, quan theo lệ cha truyền con nốị Các vua lấy hiệu Hùng,
đóng đô ở Phong Châu , nay thuộc Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên. Con trai vua gọi là
quan lang, con gái vua gọi là mị nương. Họ Hùng truyền đời được 18 vị vuạ Quan
văn gọi là Lạc hầu, quan vơ gọi là Lạc tướng. Đời nay tại tỉnh Phú Thọ có đền
thờ các vua Hùng. Ngày giỗ hàng năm là ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, người
Việt lấy ngày này là ngày giỗ tổ.
IIỊ Thời Thục (257 tr.D.L. 207
tr.D.L.)
Năm 257 tr.D.L. Thục Phán thắng
vua Hùng thứ 18. Lên ngôi lấy hiệu An Dương, đặt tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở
Phong Khê, nay thuộc Đông Anh, tỉnh Vĩnh Yên.
Để pḥng bị giặc phương
bắc, vua An Dương cho xây thành Cổ Loa rất kưên cố. Thành có ba tầng ṿng
quanh xoáy vào trung tâm như trôn ốc nên cũng gọi là Loa Thành.
Về sau,
Triệu Đà là tướng của Tàu ở vùng Nam Hải (nay thuộc tỉnh Quảng Đông của Tàu)
kéo quân sang Âu Lạc đánh phá nhiều lần nhưng đều thất bạị Thấy đánh măi không
được Triệu Đà bèn lập mưu cầu hoà, cho con là Trọng Thuỷ sang nước Việt xin
cưới công chúa Mị Châu, rồi lập mưu đánh úp. Vua An Dương bị bại trận, chạy
tới Mộ Dạ (Thanh Hoá) th́ tự tử (207 tr.D.L.).
IIỊ Thời Thục (257
tr.D.L. - 207 tr.D.L.)
Năm 257 tr.D.L. Thu.c-Phán thắng vua Hùng thứ
18. Lên ngôi lấy hiệu AnĐương, đặt tên nước là Âu-Lạc, đóng đô ở Phong-Khê,
nay thuộc Đông Anh, tỉnh Vĩnh-Yên.
Để pḥng bị giặc phương bắc, vua
AnĐương cho xây thành Cổ-Loa rất kiên cố. Thành có ba tầng ṿng quanh xoáy vào
trung tâm như trôn ốc nên cũng gọi là Loa-Thành.
Về sau, Triê.uĐDà là
tướng của Tầu ở vùng Nam-Hải (nay thuộc tỉnh QuảngĐDông của Tầu) kéo quân sang
Âu-Lạc đánh phá nhiều lần nhưng đều thất bạị Thấy đánh măi không được
Triê.uĐDà bèn lập mưu cầu hoà, cho con là Tro.ng-Thuỷ sang nước Việt xin cưới
công-chúa Mi.-Châu, rồi lập mưu đánh úp. Vua AnĐương bị bại trận, chạy tới
Mô.Đa. (Thanh-Hoá) th́ tư.-tử (207 tr.D.L.).
IV. Thời Triệu (207
tr.D.L. - 111 tr.D.L.)
Sau khi chiếm
được Âu Lạc, Triệu Đà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải (nay thuộc Quảng Đông
của Tàu) và quận Quế Lâm (nay thuộc Quảng Tây của Tàu) để lập thành nước Nam
Việt. Nhờ học được văn hoá Việt tộc, Triệu Đà bỏ tính cương bạo du mục, nên
tách ra khỏi thế lực nhà Tần của Tàu, rồi định lập kế đời đời với dân Việt,
bèn lập nước riêng và lên làm vuạ Lấy hiệu là Triệu Vũ Vương, đóng đô ở Phiên
Ngung (nay thuộc tỉnh Quảng Tây của Tàu). Triệu Đà chia nước Âu Lạc thành hai
quận Giao Chỉ (Bắc Việt) và Giao Châu (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh). Triệu Đà
mất (137 tr.D.L.), nhà Triệu c̣n truyền thêm được bốn đời vuạ
- Triệu
Văn Vương (Hồ) 137 tr.D.L. - 125 tr.D.L.
- Triệu Minh Vương (Anh Tề) 125
tr.D.L. - 113 tr.D.L.
- Triệu Ai Vương (Hưng) 113 tr.D.L. - 112 tr.D.L.
- Triệu Dương Vương (Kiến Đức)112tr.D.L. - 111 tr.D.L.
Vào đời Ai
Vương, thái hậu Cù Thị xúi vua dâng nước cho nhà Hán, tể tướng Lữ Gia bèn giết
vua cùng thái hậu rồi lập người anh khác mẹ của Ai Vương là Kiến Đức (mẹ của
Kiến Đức là người Việt) lên ngôi, gọi là Dương Vương, để cùng bầy kế chống nhà
Hán, nhưng thế lực không đủ nên năm 111 trước dương lịch bị tướng Hán là Lộ
Bác Đức đánh chiếm mất nước.
V. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (111 tr.D.L. - 39)
(Lần thứ nhất)
Nhà Tây Hán (của Tàu)
chiếm được nước Nam Việt, đổi tên là Giao Chỉ Bộ và chia thành 9 quận, riêng
địa phận Âu Lạc cũ gồm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ Bộ
đặt dưới quyền cai trị của một Thứ Sử, mỗi quận có một Thái Thú cai quản. Ỏ
các địa phương, các Lạc Hầu, Lạc Tướng người Việt vẫn được giữ chức cũ nhưng
hàng năm phải nộp thóc lúa và phẩm vật cho các quan Tàụ Các Thái Thú và Thứ Sử
người Hán lúc đó hầu hết rất bạo tàn.
VI. Thời Nữ vương họ Trưng
(40-43)
Vào thời Tô Định làm thái
thú quận Giao Chỉ, một thủ lănh người Việt tên là Thi Sách v́ mưu việc đuổi
Tàu mà bị giết.
Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị tiếp tục
ư chí cách mạng, phất cờ khởi nghĩa đánh Tàu giành độc lập. Hai bà được dân
chúng khắp nơi hưởng ứng, chiếm lại được 65 thành tŕ và đánh đuổi quân Tô
Định về Tàụ Hai bà xưng vương năm 40, đóng đô ở Mê Lynh (nay thuộc tỉnh Phúc
Yên). Nhà Hán phải sai một danh tướng tên là Mă Viện sang đánh. Hai bà yếu
thế, thất trận, tự trầm ở sông Hát vào năm 43.
Ngày nay ở làng Đồng
Nhân, gần Hà Nội, có đền thờ hai bà. Ngày kư? niệm hai bà Trưng là ngày mồng 6
tháng hai âm lịch hàng năm.
VII. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (43-544) (Lần thứ
hai)
A. Việc đô hộ khắc nghiệt
Từ khi Mă Viện chiếm được Giao Chỉ, chế độ đô hộ của Đông Hán lại càng khắc
nghiệt hơn. Đổi Giao Chỉ thành Giao Châụ Các lạc hầu, lạc tướng đều bị mất hết
quyền hành, Giao Châu bị chia thành nhiều huyện, do các huyện lệnh người Tàu
cai tri..
Đời sống dân chúng rất khốn cực v́ bị bọn đô hộ hành hạ, bóc
lột đến tận cùng.
B. Bà Triệu khởi nghĩa (248)
Năm 248, Bà Triệu
khởi nghĩa ở quận Cửu Chân, đánh thắng quân Tàu nhiều trận, khiến chúng khiếp
sợ, nên gọi là bà là Lệ Hải Bà Vương. Nhưng v́ quân ít, thế cô, bà Triệu bị
thất trận, chạy tới làng Bồ Điền (Thanh Hoá) th́ tự tử. Ngày nay tại đó c̣n có
đền thờ Bà Triệụ
VIIỊ Thời Lư (544 - 602)
- Lư Nam Đế 544 - 549
- Triệu
Việt Vương 549 - 571
- Hậu Lư Nam Đế 571 - 602
Năm 541 Lư Bôn khởi
nghĩa đánh đuổi quân Tàu, chiếm được Long Biên, thứ sử Tiêu Tư phải chạy trốn
về Tàu.
Năm 544, Lư Bôn lên ngôi vua, lấy hiệu Lư Nam Đế, đặt tên nước
là Vạn Xuân.
Nhà Lương bên Tàu sai Trần Bá Tiên sang gây chiến, Lư Nam
Đế phải lui về Khuất Lyêu (Hưng Hoá) và trao quyền cho Triệu Quang Phục. Thấy
thế giặc mạnh, Triệu Quang Phục bèn lập căn cứ ở đầm Dạ Trạch (phủ Khoái Châu
tỉnh Vĩnh Yên) và dùng lối đánh du kưch khiến quân Tàu phải thất trận, rồi
chiếm lại kưnh độ Lúc đó Lư Nam Đế bị bịnh mất, Triệu Quang Phục lên ngôi,
xưng là Triệu Việt Vương, năm 549. Tới năm 571 Lư Phật Tử cướp ngôi của Triệu
Việt Vương, rồi xưng là Hậu Lư Nam Đế.
Năm 602, quân Tàu lại kéo sang
đánh phá, Lư Phật Tử thế yếu phải hàng giặc.
IX. Thời kỳ bị Tàu đô hộ
(603-939) (Lần thứ ba)
Thời kỳ này
các quan lại Tàu rất khắc nghiệt. Năm 679, nhà Đường của Tàu thiết lập An Nam
Đô Hộ Phủ ở Giao Châu, để gia tăng bóc lột hà hiếp dân chúng. Khắp nơi trong
nước, dân chúng nổi lên chống bọn đô hô..
Ạ Mai Hắc Đế khởi nghĩa ở
Châu Hoan (Nghệ An) (722)
Mai Thúc Loan khởi binh đánh Tàu, chiếm lại
vùng châu Hoan (Nghệ An) năm 722, rồi xưng Hoàng Đế, người đời thường gọi ông
là Mai Hắc Đế. Ông liên kết vây cánh với Lâm Ấp và Chân Lạp, nhưng việc chuẩn
bị chưa xong th́ ông bị bại trận, rồi mắc bệnh mà mất.
B. Cuộc khởi
nghĩa của Bố Cái Đại Vương (791)
Năm 791 Phùng Hưng khởi nghĩa chiếm
được phủ đô hộ rồi sửa sang việc cai trị, được mấy tháng th́ mất. Dân chúng
lập đền thờ tôn ông là Bố Cái Đại Vương.
Con Phùng Hưng lên cầm quyền
nhưng thế yếu phải ra hàng quân Tàu (lúc đó là nhà Đường của Trung Hoa).
C. Họ Khúc dấy nghiệp (906 - 923)
Vào cuối đời Đường, nước Tàu rất loạn
lạc, thừa cơ ấy dân Việt khởi nghĩa khắp nơi, Tiết độ sứ thất bại phải chạy về
Tàụ Năm 906 dân chúng tôn Khúc Thừa Dụ người Hồng Châu (Hải Dương) lên làm
tiết độ sứ.Nhà Đựng v́ suy yếu phải thuận phong cho Khúc Thừa Du.. Cai trị
được một năm th́ ông mất, con là Khúc Hạo lên thaỵ Sửa sang lại việc cai trị
như một nước tự chủ. Năm 917 Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp. Năm
923, quân Tàu Nam Hán sang đánh chiếm Giao Châu, rồi sai Lư Tiến làm thứ sử.
X. Thời Ngô (939 - 965)
- Tiền Ngô Vương 939 - 944
- Dương Tam Kha 945 - 950
-
Hậu Ngô Vương 950 - 965
- Loạn 12 Sứ Quân 945 - 967
Năm 931, tướng
cũ của họ Khúc là Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, rồi tự xưng
làm tiết độ sứ. Cai trị được 6 năm th́ bị bộ tướng là Kiều Công Tiện ám sát để
cướp quyền.
Con rể của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền mang quân từ châu
Ái (Thanh Hoá) ra báo thù. Kiều Công Tiện bị thua bèn cầu cứu Nam Hán. Ngô
Quyền giết Tiện rồi tiến binh phá tan quân Nam Hán trong trận sông Bạch Đằng,
chấm dứt thời kỳ bị Tàu đô hộ, lập lại nền độc lập cho nước Việt.
Năm
939 Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (Phúc Yên). Vua Ngô Quyền sửa sang
việc cai trị, tổ chức chế độ quân chủ và thiết lập nền độc lập vững bền, nhưng
mới trị v́ được 5 năm th́ mất. Con là Ngô Xương Ngập lên ngôi, nhưng lại bị
cậu là Dương Tam Kha (em vợ của Ngô Quyền) cướp ngôi (945). Em Ngô Xương Ngập
là Ngô Xương Văn diệt Dương Tam Kha (950) rồi hai anh em cùng làm vua, xưng là
Hậu Ngô Vương. Đến năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị chết trận tại Thái
B́nh. Thế lực vua Ngô càng ngày càng suy yếu, thổ hào các nơi nổi lên tranh
cướp quyền hành, chia nước thành 12 vùng cai trị riêng biệt, thủ lănh mỗi vùng
xưng là sứ quân. Thời này của nước Việt gọi là "Loạn 12 Sứ Quân".
Loạn
bắt đầu năm 945, măi tới năm 967, Đinh Bộ Lĩnh mớI chấm dứt được.
XỊ
Thời Đinh (968 - 980)
- Đinh Tiên
Hoàng 968 - 979
- Đinh Tuệ 979 - 980
Đinh Bộ Lĩnh là một vị tướng
tài ba, dẹp tan loạn 12 Sứ Quân năm 968, lập nên triều đại nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh người ở Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh B́nh), con của Đinh Công Trứ
làm thứ sử châu Hoan dưới thời nhà Ngộ Ngay khi c̣n bé đă tỏ ra có mưu trí hơn
người, lớn lên theo giúp và làm con nuôi sứ quân Trần Lăm. Khi Trần Lăm mất,
Đinh Bộ Lĩnh đem quân về Hoa Lư để rèn luyện. Khi cử binh đánh các sứ quân,
trận nào cũng thắng nên được tôn là Vạn Thắng Vương. Chỉ trong ṿng một năm,
dẹp tan loạn 12 sứ quân.
Năm 968 Vạn Thắng Vương lên ngôi, lấy hiệu là
Đinh Tiên Hoàng, đổi tên nước là Đại Cồ Việt, lập đô ở Hoa Lự Đinh Tiên Hoàng
sửa sang việc nước, thiết lập triều quy, tổ chức quân đội, đặt h́nh luật rất
nghiêm khắc.
V́ muốn yên mặt bắc, vả lại thế lực nhà Tống bên Tàu đang
mạnh, Đinh Tiên Hoàng cho con sang triều cống nhà Tống để giữ t́nh hoà hảọ Năm
972 Tống vương phong Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.
Đinh Tiên
Hoàng làm vua được 12 năm th́ bị tên cận vệ Đỗ Thích ám sát năm 979. Con nhỏ
là Đinh Tuệ được lập làm vua, nhưng chỉ được một năm th́ bị truất ngôi.
XIỊ Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê)
- Lê Đại Hành 980 - 1005
- Lê Trung Tông
1005
- Lê Long Đĩnh 1005 - 1009
Cuối đời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua
chỉ ham mê tửu sắc, rồi bị ám sát cùng với thái tử Đinh Lyễn năm 979. Đinh Tuệ
mới 6 tuổi được lập làm vua, nhưng quyền hành về cả tay Thập đạo Tướng quân Lê
Hoàn.
Năm 980, nhà Tống của Tàu lấy cớ đó mang quân sang đánh nước
Việt. Lê Hoàn được triều thần tôn lên làm vua để lo việc chống ngoại xâm. Quân
Tàu kéo sang theo đường Lạng Sơn và sông Bạch Đằng. Nhưng mới chỉ tới Chi Lăng
th́ bộ binh của Tàu bị vua Lê Đại Hành đánh tan, thuỷ quân Tàu thấy vậy hoảng
sợ phải rút luị Vua Tống thấy đánh không được phải tôn phong vua Lê Đại Hành
là Giao Chỉ Quận Vương để giữ t́nh hoà hảo (993). Vua Đại Hành lại đánh phá
quân Chiêm ở phía nam, khiến nước này phải thần phục năm 982.
Vua Đại
Hành mất năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua, thái tử Long Việt lên
ngôi, nhưng mới được 3 ngày th́ bị em là Long Đĩnh sai người ám sát để cướp
ngôi. Long Đĩnh lên ngôi năm 1005, là người rất hung ác, đam mê tửu sắc và
bệnh hoạn. Khi ngự triều phải nằm. Người trong nước gọi ông là Lê Ngoạ Triềụ
Long Đĩnh chết năm 1009.
XIIỊ Thời Lư (1009 - 1225) (Hậu Lư)
- Lư Thái Tổ 1010 1028
- Lư Thái Tông 1028
1054
- Lư Thánh Tông 1054 1072
- Lư Nhân Tông 1072 1127
- Lư Thần
Tông 1128 1138
- Lư Anh Tông 1138 1175
- Lư Cao Tông 1176 1210
- Lư
Huệ Tông 1211 1225
- Lư Chiêu Hoàng 1225
Lê Long Đĩnh chết, triều
thần tôn Lư Công Uẩn lên ngôi, ông xưng là Lư Thái Tổ, rời kưnh đô về thành
Đại La, nay là Hà Nộị Tục truyền rằng khi Lư Thái Tổ vào thành Đại La th́ thấy
rồng vàng bay lên đón rước do đó mà đổi tên là thành Thăng Long.
Lư
Thái Tổ rất sùng đạo Phật nên cho xây chùa khắp nơi và truyền bá rất nhiều
kưnh Phật cho dân chúng.
Đến đời Lư Thánh Tông tên nước đổi là Đại Việt
(1054). Năm 1069, Lư Thánh Tông mở mang bờ cơi về phía nam. Đem quân đánh
Chiêm Thành, bắt vua Chiêm là Chế Củ mang về Thăng Long. Chế Củ phải dâng đất
để chuộc mạng, gồm các châu Địa lư, Ma Lynh và Bố Chính (nay là Quảng B́nh,
Quảng Trị).
Năm 1075, Lư Nhân Tông cử Lư Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10
vạn quân chia thành hai đạo thuỷ bộ đánh chiếm 3 châu Khâm, Lyêm và Ung của
Tàu (lúc đó nhà Tống đang cai trị nước Tàu).
Thời Lư kéo dài hơn 200
năm, truyền được 9 đời vua. Vị cuối cùng là một nữ vương, lên ngôi mới 7 tuổi,
xưng là Lư Chiêu Hoàng. V́ Lư Chiêu Hoàng c̣n nhỏ tuổi nên quyền hành đều ở
trong tay Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Đô.. Trần Thủ Độ lập mưu để Lư Chiêu
Hoàng lấy cháu ḿnh là Trần Cảnh rồi ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng năm
1225.
XIV. Thời Trần (1225 - 1400)
- Trần thái tông 1225 1258
- Trần thánh tông 1258 1278
-
Trần Nhân Tông 1278 1293
- Trần Anh Tông 1293 1314
- Trần Minh Tông 1314
1329
- Trần Hiến Tông 1329 1341
- Trần Dụ Tông 1341 1369
- Trần Nghệ
Tông 1370 1372
- Trần Duệ Tông 1372 1377
- Trần Phế Đế 1377 1388
-
Trần Thuận Tông 1388 1398
- Trần Thiếu Đế 1398 1400
Trần Cảnh lên
ngôi vua, xưng là Trần Thái Tông, nhưng mọi quyền hành đều nằm trong tay Thái
sư Trần Thủ Đô..
Thời Trần nho học rất thi.nh. Ỏ kưnh đô, ngoài Quốc Tử
Giám đă có từ thời Lư, triều đ́nh cho lập thêm Quốc Học viện để giảng tứ thư,
ngũ kưnh. Nước chia thành 12 Bộ, tại mỗi bộ đều có trường dạy học.
Văn
học thời Trần rất thi.nh. Đời này có nhiều nhân tài như Lê Văn Hưu đă soạn bộ
Đại Việt Sử Kí rất có giá trị; Mạc Đĩnh Chi, nhà văn học lỗi lạc, nổi tiếng
trong việc ngoại giao với nhà Nguyên của Tàu; Chu An, nhà văn học tài ba nêu
gương thanh khiết và cương trực; Nguyễn Thuyên có công xây dựng nền tảng cho
văn Nôm.
Trần Quốc Tuấn soạn "Hịch Tướng Sĩ" được đời truyền tu.ng. Các
vua nhà Trần đều có soạn Ngự Tập.
Vơ công thời Trần rất hiển hách, đă
tạo được một vơ nghiệp oanh liệt trong lịch sử thế giới, là đánh bại đoàn quân
bách thắng Mông Cổ. Lúc đó Mông Cổ đă toàn thắng khắp nơi từ Trung Á tới Đông
Âu và chiếm trọn nước Tàu ở phía bắc nước Việt. Thế mà ba lần Mông Cổ sang xâm
lấn nước Việt đều bị thất bại (năm 1257, năm 1284, năm 1287). Chiến thắng
đại quân Mông Cổ, Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xứng đáng là vị tướng tài
ba bậc nhất cổ kim.
Đời Trần Anh Tông mở mang bờ cơi về phía nam.
Nhà vua gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Hôn lễ của vua Chiêm là
châu Ô và châu Rị Năm 1307, vùng này được đổi thành châu Thuận và châu Hoá
(nay là vùng Thừa Thiên).
Cuối thời Trần, các vua trở nên kém cỏi,
triều đ́nh suy yếu, dân nước đói khổ, quyền hành đều nằm cả trong tay Hồ Quư
Lỵ
XV. Thời Hồ (1400 - 1407)
- Hồ Quư Ly 1400
- Hồ Hán Thương 1401- 1407
Các vua cuối nhà Trần trí kém, tài hèn nên Hồ Quư Ly nắm trọn quyền
hành. Đến năm 1400 Hồ Quư Ly truất phế Trần Thiếu Đế rồi xưng làm vua, đóng đô
ở Tây Đô (Thanh Hoá), đổi tên nước là Đại Ngụ
Hồ Quư Ly cải tổ mọi việc
trong nước, lập thuế thuyền buôn, chế tiền giấy thay tiền đồng để tiện lưu
dụng, dịch sách chữ Nho sang chữ Nôm; dùng chữ Nôm trong việc giáo dục cùng
trong các văn kưện hành chánh. Tổ chức binh bị rất chu đáo, lập sổ dân và
tuyển thêm quân, định binh chế, đóng chiến thuyền, xây thành luỹ, lập kho
lương và xưởng chế tạo vũ khí.
Năm 1402 đánh Chiêm Thành mở rộng bờ cơi
phía nam, Chiêm Thành thất trận, phải dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam) và Cổ
Luỹ (Quảng Ngăi).
Năm 1406 nhà Minh bên Tàu lấy cớ giúp nhà Trần sai
Trương Phụ và Mộc Thạch đem đại quân sang đánh nước Việt. Quân sĩ nhà Hồ yếu
hèn, lực lượng quốc gia suy kém, dân chúng bị đói khổ v́ những năm suy vi cuối
thời Trần, nên quân Minh đă thắng dễ dàng. Hồ Quư Ly và con cháu chạy vào tới
Hà Tĩnh th́ bị quân Minh bắt, rồi giải sang Tàụ Về sau, nhà Minh khai thác tài
trí con cháu nhà Hồ để phát triển nền văn minh Trung Hoa.
XVỊ Hậu Trần
Kháng Chiến Chống Tàu (1407 - 1413) (Hậu Trần)
- Giản Định Đế 1407 - 1409
- Vua Trùng Quang 1409 -
1413
Sau khi dứt nhà Hồ, quân Tàu chiếm nước Việt, thiết lập việc cai
tri..
Con cháu nhà Trần phải chịu lao khổ kháng chiến chống quân Minh.
Hoàng Đế Giản Định (Trần Quỹ), vua Trùng Quang (Trần Quư Khoách) gặp nhiều
gian nan. Cuối cùng, thế yếu tất cả đều bị thất bạị
XVIỊ Thời kỳ bị Tàu
(nhà Minh) đô hộ (1414 - 1427)
Ạ
Việc Tàu đô hộ
Thắng được nhà Hồ và con cháu nhà Trần, quân Minh thiết
lập việc đô hộ rất tàn bạo, bóc lột dân Việt đến cùng cực: tiêu huỷ sách vở,
tận thu tài liệu văn hoá Việt mang về Tàu để mạo thành tài liệu của Tàu, bắt
dân Việt học chữ Hán, đầy đoạ dân chúng trong cảnh khốn cực, lầm than.
B. Lê Lợi Đánh Tàu Phục Quốc (1418 1427)
Năm 1418 Lê Lợi xưng là B́nh
Định Vương, khởi nghĩa đánh Tàu ở Lam Sơn (Thanh Hoá). Lúc đầu, thế c̣n yếu,
Lê Lợi phải rút quân về núi Chí Lynh ba lần để thế thủ và rèn luyện quân sĩ.
Tới năm 1424, theo sách lược của Nguyễn Trăi, B́nh Định Vương đánh thắng quân
Minh liên tiếp, chiếm lại các đất từ Thanh Hoá vào nam.
Năm 1426 B́nh
Định Vương tiến quân ra bắc, đánh tan đại quân của Vương Thông tại Tuỵ Động,
chém chết Liễu Thăng ở Chi Lăng, giành lại độc lập cho người Việt năm 1427.
XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527)
- Lê Thái Tổ 1428 - 1433
-Lê Thái
Tông 1433 - 1442
- Lê Nhân Tông 1442 - 1459
- Lê thánh Tông 1460 -
1497
- Lê Hiến Tông 1497 - 1504
- Lê túc Tông 1504
- Lê Uy Mục 1505 -
1509
- Lê Tương Dực 1509 - 1516
- Lê Chiêu Tông 1516 - 1524
- Lê Cung
Hoàng 1524-1527
Sau khi đuổi xong giặc Tàu, B́nh Định Vương lên ngôi
Hoàng Đế, xưng là Thái Tổ, đóng đô ở Thăng Long, tên nước vẫn là Đại Việt.
Ỏ thời Lê, mọi việc trong nước đều được sửa sang. Việc cai trị sắp đặt tốt
đẹp, luật pháp nghiêm minh. Bộ luật Hồng Đức là bộ luật rất hoàn bị đă được
ban hành dưới triều Lê Thánh Tông (1460 1497)
Việc học được khuyến
khích. Triều đ́nh đặt lệ khắc tên những người đỗ tiến sĩ vào bia đá và được
vinh quy bái tổ.
Thời này có nhiều tác phẩm danh tiếng c̣n truyền đến
nay như: Đại Việt Sử Kí Toàn Thư của Ngô Sĩ Lyên, thơ văn của Nguyễn Trăi (Gia
Huấn Ca, B́nh Ngô Đại Cáo, v.v.).
Vơ công và việc mở mang bờ cơi cũng
rất lẫy lừng, Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành, lấy đất, lập thành đạo Quảng Nam
(1471). Năm 1479 xứ Bồn Man (Trấn Ninh, nước Lào) liên kết với nước Lăo Qua
(nước Lào) nổi lên quấy phá, Lê Thánh Tông sai quân đánh dẹp, xứ Bồn Man xin
quy thuận.
Vào cuối thời Lê, các vua sinh tật, ham mê tửu sắc, xa xỉ
thái quá, khiến dân nước khổ sở, giặc giă nổi lên khắp nơị Quan triều th́
giành nhau quyền lợi. Tướng Mạc Đăng Dung dẹp yên loạn ở triều rồi giết vua Lê
Cung Hoàng (1527), soán đoạt ngôi vuạ
XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền
(1527 - 1592)
- Thái Tổ Mạc Đăng
Dung 1527 - 1529
- Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1529 - 1540
- Hiến Tông Mạc
Phúc Hải 1540 - 1546
- Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546 - 1561
- Mạc Mậu
Hợp 1561 - 1592
Mạc Đăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng rồi soán ngôi,
lập nên nhà Mạc. Mạc Đăng Dung lên ngôi xưng là Minh Đức, vẫn theo chính sách
của các triều Lê mà trị nước.
Đến năm 1540, Mạc Đăng Dung hàng phục Tàu
và nhận chức phong Đô Thống Sứ của nhà Minh. Đa số các quan triều không phục,
người th́ ẩn tránh, người th́ nổi lên chống lại.
Con một cựu thần nhà
Lê là Nguyễn Kim nổi lên, lập con cháu nhà Lê lên làm vua để chống nhà Mạc.
Nguyễn Kim đánh chiếm được từ Thanh Hoá vào nam, chia đôi đất nước với nhà
Mạc.
Năm 1545, Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm thế quyền. Trịnh
Kiểm sợ con cái Nguyễn Kim không chịu bèn giết em vợ là Nguyễn Uông và bắt
Nguyễn Hoàng vào trấn ở đất Thuận Hoá (1558). Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng lên
thay năm 1592. Trịnh Tùng đem quân đánh nhà Mạc ở bắc, giết được Mạc Mậu Hợp,
chiếm kưnh thành, diệt xong nhà Mạc, hoàn thành việc trung hưng nhà Lê.
Ạ Các Vua Lê Trong Thời kỳ Lê Mạc Chiến Tranh (1533 - 1592)
- Lê Trang Tông 1533 - 1548
- Lê Trung Tông 1548 - 1556
-
Lê Anh Tông 1556 - 1573
- Lê Thế Tông 1573 - 1599
B. Các Vua Lê
trong Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh
- Lê Kính Tông 1560 -
1619
- Lê Thần Tông 1619 - 1643
- Lê Chân Tông 1643 - 1649
- Lê Thần
Tông 1649 - 1662 (làm vua lần thứ hai)
- Lê Huyền Tông 1663 - 1671
- Lê
Gia Tông 1672 - 1675
- Lê Hi Tông 1676 - 1705
- Lê Dụ Tông 1706 - 1729
- Lê Đế Duy Phương 1729 - 1732
- Lê Thuần Tông 1732 - 1735
- Lê
Ư Tông 1735 - 1740
- Lê Hiển Tông 1740 - 1786
- Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống)
1787 - 1788
XX. Thời Lê trung hưng (1592 - 1788)
Trong thời Lê Trung Hưng th́ từ năm1627 tới
1672 là giai đoạn Nam Bắc phân tranh giữa họ Trịnh và Nguyễn, kéo dài 45 năm.
Trong thời Trung Hưng, vua Lê chỉ có hư vị, Trịnh Tùng xưng chúa, rồi cha
truyền con nối, nắm hết quyền hành ở miền Bắc, gọi là Đàng Ngoàị Nguyễn Hoàng
xưng chúa ở miền Nam, lập thành một khu vực tự trị, gọi là Đàng Trong. Chúa
Trịnh, chúa Nguyễn đều muốn tiêu diệt nhau để nắm trọn quyền hành, nên sinh
thù nghịch và gây việc chiến tranh.
Năm 1627, chúa Trịnh lấy cớ chúa
Nguyễn không chịu nộp thuế cho vua Lê nên sai quân vào đánh miền Nam, bắt đầu
cuộc chiến tranh Nam Bắc.
Trong ṿng 45 năm Trịnh, Nguyễn đánh nhau 7
lần không phân thắng bại nên hai bên phải giảng hoà, cắt nước làm đôi, lấy
sông Gianh làm ranh giới hai miền Bắc, Nam.
Chính trị miền Bắc (Đàng
Ngoài) chỉ quanh quẩn việc ngôi vị và cai trị địa phương cùng lăm le đánh
chiếm miền Nam.
Miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn ngoài việc lo
chống các chúa Trịnh ở Bắc, vẫn lo được việc mở mang bờ cơi. Lấy các đất của
Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp để thành lập các tỉnh B́nh Định năm 1558, Phú Yên
năm 1611, Khánh Hoà năm 1653, Biên Hoà và Gia Định năm 1698, Hà Tiên năm 1708.
Nhưng ở miền Nam từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm 1765 th́ sinh rối loạn
do quyền thần Trương Thúc Loan, làm nhiều điều tàn ác, dân chúng oán giận.
Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ khởi nghĩa ở làng Tây
Sơn (B́nh Định), đánh chiếm Quy Nhơn rồi lấy luôn từ Quảng Ngăi vào B́nh
Thuận.
Chúa Trịnh thừa cơ miền Nam rối loạn bèn sai quân vào đánh lấy
Phú Xuân (1775). Chúa Nguyễn bị thua, chạy vào
Quảng Nam, nhưng lại bị
Nguyễn Nhạc đánh bại, nên phải trốn vào Gia Đi.nh. Ỏ đây chúa Nguyễn Phúc
Thuần bị
tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ giết chết.
Lúc đó, Nguyễn Nhạc
thấy quân Trịnh đang mạnh bèn hàng thuận để khỏi lo mặt Bắc, rồi tiến quân
đánh chúa Nguyễn. Chiếm lấy đất Gia Định (1777).
Sau khi thắng miền
Nam, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, xưng hiệu là Thái Đức, lập kưnh đô ở thành Đồ
Bàn năm 1778.
C̣n ở Đàng Ngoài th́ rối loạn. Cuối đời Trịnh Khải có
loạn kưêu binh (1782). Nguyễn Huệ nhân dịp đó chiếm Thuận Hoá, rồi thừa thế
tiến ra Thăng Long. Trịnh Khải bị thua phải tự tử. Thế là cơ nghiệp nhà chúa
chấm dứt (1786).
Nguyễn Huệ trả quyền cai trị cho vua Lê Hiển Tông rồi
rút quân về Nam. Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ nối ngôi, niên hiệu Chiêu
Thống. Lê Chiêu Thống nhu nhược, bất tài nên Trịnh Bồng lại ép vua để lập lại
nghiệp chúạ Nguyễn Hữu Chỉnh từ Thanh Hoá ra giúp Chiêu Thống dẹp được Trịnh
Bồng, rồi từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh cậy công mà chuyên quyền.
Bắc B́nh
Vương Nguyễn Huệ đóng đô ở Thuận Hoá được tin Nguyễn Hữu Chỉnh áp chế vua Lê
bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Chiêu Thống thấy Vũ Văn Nhậm
đưa quân ra bắc th́ sợ hăi rồi chạy trốn và gởi con sang Tàu cầu viện quân
Thanh (1788).
Vũ Văn Nhậm ở bắc có ư phản nghịch, Bắc B́nh Vương phải
thân chinh ra bắt Nhậm giết đi, rồi trao quyền cai trị đất bắc cho Ngô Văn Sở
và Ngô Thời Nhiệm.
Các Chúa Trịnh ở Bắc Các Chúa Nguyễn ở Nam
Trịnh Tùng 1570 - 1623 Nguyễn Hoàng 1600 - 1613 Chúa Tiên
Trịnh Tráng
1623 - 1657 NguyễnPhúcNguyên 1613 1635 Chúa Săi
Nguyễn Phúc Lan 1635 -
1648 Chúa Thượng
Trịnh Tạc 1657 - 1682 Nguyễn Phúc Tần 1648 - 1687
Chúa Hiền
Trịnh Căn 1682 - 1709 Nguyễn Phúc Trăn 1687 - 1691 Chúa Nghĩa
Trịnh Cương 1709 - 1729 Nguyễn Phúc Chu 1691 - 1725 Quốc Chúa
Trịnh
Giang 1729 - 1740 Nguyễn Phúc Trú 1725 - 1738
Trịnh Doanh 1740 - 1767
Nguyễn Phúc Khoát 1738 - 1765
Trịnh Sâm 1767 - 17882 Nguyễn PhúcThuần
1765 - 1777
Trinh Cán 1782 - 1783 (làmm chúa được 2 tháng)
Trịnh
Khải 1783 - 1786
XXỊ Thời Tây Sơn (1788 - 1802)
- Vua Quang trung 1788 - 1792
- Vua Cảnh Thịnh 11792 - 1802
Vua Thanh Càn long mượn cớ Lê Chiêu Thống cầu viện để thôn tính nước Việt, đă
sai Tôn Sĩ nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Quân Thanh theo ba đường: Tuyên
quang, Cao bằng và Lạng sơn (1788).
Ngô Văn Sở thấy không thể kháng cự
nổi, bèn rút quân về núi Tam điệp.
Lê Chiêu Thống theo quân Tôn Sĩ nghị
vào Thăng long và nhận chức An Nam Quốc vương do vua Thanh Càn long phong cho,
rồi ỷ vào thế quân Tàu thả sức lo việc chém giết báo thù. C̣n quân Thanh th́
thả sức cướp bóc, giết hại dân Việt. Dân chúng miền Bắc phải sống trong cảnh
vô cùng kưnh hoàng khốn cực.
Được tin quân Thanh sang xâm lăng, Bắc
B́nh Vương lên ngôi Hoàng Đế (1788), lấy hiệu Quang Trung, rồi kéo 10 vạn quân
ra Bắc tiễu phạt quân Tàụ
Ngày 10 tháng chạp quân Việt tới núi Tam
Điệp, Hoàng Đế Quang Trung cho dừng binh để quân sĩ ăn tết trước, rồi ngày 30
tháng chạp hỏa tốc tiến đánh. Quân Tàu liên tiếp bị thất bại ở các mặt trận
Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đạ Các danh tướng Tàu Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi
Đống đều bị chết trận. Tôn Sĩ Nghị quá sợ hăi phải rút tàn quân chạy trốn về
Tàụ Thế là chỉ trong ṿng năm (5) ngày, Quang Trung đại phá quân Thanh (1789).
Lê Chiêu Thống và gia đ́nh chạy theo Tôn Sĩ Nghị sang Tàu, rồi sau này bị chết
nhục ở nước ngườị
Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung lo sắp xếp,
ổn định nội trị và ngoại giaọ
V́ vua Thanh Càn Long có ḷng kưnh nể
Hoàng Đế Quang Trung nên việc giao hoà giữa hai nước sớm được ổn định tốt đẹp.
Việc nội trị, Quang Trung định đô tại Nghệ An, là Phượng Hoàng Trung Đô và gọi
Thăng Long là Bắc Thành. Nước được chia thành nhiều trấn, có trấn thủ coi việc
vơ, hiệp trấn coi việc văn.
Lập sổ điền, khuyến khích nông nghiệp, phát
triển buôn bán, đúc tiền đồng, cải cách và khuyến khích văn học, dùng chữ Nôm
làm quốc tự, bỏ chữ Hán.
Nhà vua rất chú trọng việc quân sự, lập sổ
đinh, tuyển chọn binh sĩ và tập luyện chuyên cần, để lo việc tương lai đánh
Tàu lấy lại đất Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây). Nhưng vị vua anh tài bậc
nhất trong lịch sử bị mất sớm (1792) nên quốc sách không thi hành được.
Con của Quang Trung là Quang Toản lên ngôi lấy hiệu Cảnh Thi.nh. Quang Toản
nhỏ tuổi, trong nước gặp lúc khó khăn lộn xộn, nên về sau bị Nguyễn Ánh lấy
mất nghiệp (1802).
Thời Tây Sơn, nước Việt bị chia làm ba miền: Miền
Bắc do Nguyễn Huệ cai trị; Miền Trung do anh cả Nguyễn Nhạc cai quản; Miền Nam
do anh thứ hai Nguyễn Lữ chỉ huỵ Khi chúa Nguyễn mất nghiệp th́ c̣n sót lại
một người ḍng dơi nhà Nguyễn là Nguyễn Ánh, tụ tập quân sĩ đánh nhau với
Nguyễn Lữ, chiếm được thành Gia Định, xưng vương năm 1780.
Sau Nguyễn
Ánh lại bị thất bại phải chạy ra vùng hải đảo cùng trốn sang Xiêm La (Thái
Lan) cầu cứu quân Xiêm và thế lực Tây Phương.
Năm 1788 Nguyễn Ánh lại
chiếm được Gia Định, rồi nhân cơ hội anh em Tây Sơn bất hoà, cùng nhờ được một
số người Pháp giúp sức và luyện tập binh sĩ nên tính việc đánh Bắc Hà.
Từ năm 1790 cứ theo mùa gió nồm (thổi từ nam lên bắc) Nguyễn Ánh đem binh
thuyền ra đánh phá Tây Sơn, khi đổi chiều gió th́ rút đị Cho nên dân chúng gọi
các trận ấy là "giặc mùa".
Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn 3 lần mới thắng
(1799) rồi đổi tên là B́nh Đi.nh.
Năm 1801 Nguyễn Ánh mang toàn lực hạ
thành Phú Xuân (Huế). Vua Cảnh Thịnh phải chạy ra Bắc. Chiếm được Phú Xuân,
Nguyễn Ánh lên ngôi vua, xưng là Gia Long năm 1802. Lập kưnh đô ở Phú Xuân và
đổi tên nước là Việt Nam.
Gia Long ra đánh Bắc Hà trong ṿng một tháng
th́ toàn thắng, vua Quang Toản cùng các tướng đều bị bắt rồi bị giết. Thời Tây
Sơn chấm dứt năm 1802, Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long và thống nhất đất nước
ngày 20 tháng 7 năm 1802.
XXIỊ Thời Nguyễn (1802 - 1884)
Ạ Các Vua Nhà Nguyễn Trong Thời Độc Lập
Thế Tổ - Gia
Long 1802 - 1819
Thánh Tổ - Minh Mệnh 1820 - 1840
Hiến Tổ - Thiệu Trị
1841 - 1847
Dực Tông - Tự Dức 1847 - 1883. Không con, có ba người
con
nuôi : Dục Đức, Chánh Mông và Dưỡng Thiện
B. Các Vua Nhà Nguyễn Trong
Thời kỳ Việt Pháp Chiến Tranh
- Dục Đức 1883 làm vua được 3 ngàỵ Con
nuôi trưởng của vua Dực Tông
- Hiệp Ḥa 1883 làm vua được 4 tháng th́ bị
giết. Em vua Dực Tông
- Kiến Phúc 1883 - 1884 làm vua được 6 tháng th́
mất; con nuôi thứ ba của vua Dực Tông
- Hàm Nghi 1884 - 1885 bị Pháp đầy
sang nước Algérie năm 1885. Em vua Chánh Mông
C. Các Vua Nhà Nguyễn do
Pháp lập nên
- Đồng Khánh 1885 - 1888. Tên là Chánh Mông,con nuôi thứ
hai của vua Dực Tông
- Thành Thái 1888 - 1907. Con vua Dục Đức, bị Pháp đầy
sang đảo Réunion (Phi Châu) năm 1915 v́ mưu việc đuổi
Pháp
- Duy Tân
1907 - 1916. Bị Pháp đầy sang đảo Réunion năm 1916, v́ đánh đuổi Pháp
-
Khải Định 1916 - 1925
- Bảo Đại (lần thứ nhất) 1926 - 1945 (lần thứ hai)
1948 - 1955
Sau khi thống nhất, Gia Long (1802 - 1820) sắp đặt việc cai
trị trong nước và ngoại giaọ
Tổ chức triều chính gồm có 6 bộ trông coi
các việc.
Bộ Lại : coi việc quan lại, hành chánh.
Bộ Hộ : coi việc
thuế khoá, tài chính.
Bộ Lễ : coi việc lễ nghi, giáo dục.
Bộ H́nh : coi
việc luật pháp.
Bộ Binh : coi việc quân sư..
Bộ Công : coi việc xây cất,
giao thông.
Đứng đầu mỗi bộ là Thượng Thự
Nước chia thành 23
trấn, 4 doanh, đứng đầu trấn là Trấn Thủ. Miền Bắc gọi là Bắc Thành gồm 11
trấn. Miền Nam gọi là Gia Định Thành gồm 5 trấn. Ỏ mỗi thành có Tổng Trấn đứng
đầụ Triều đ́nh trực tiếp cai trị 7 trấn và 4 doanh miền Trung. Trấn chia thành
Phủ, Huyện, Châu, Tổng, Xă; Đứng đầu là Trị Phủ, Tri Huyện, Tri Châu, Cai
Tổng, Xă Trưởng.
Bộ luật Gia Long ban hành năm 1815. Bộ luật này phỏng
theo luật Hồng Đức thời Lê và luật nhà Thanh bên Tàu.
Phép cân đo được
quy định rơ ràng. Lập sở đúc tiền. Thuế lệ chia thành: thuế đinh, thuế điền,
thuế sản vật.
Kế vị Gia Long là Minh Mạng (1820 - 1840). Minh Mạng đặt
thêm nội các và cơ mật viện để lo việc triều chính. Băi bỏ chức Tổng Trấn, đổi
các Trấn, Doanh thành tỉnh. Đặt chức Tổng đốc và Tuần phủ để cai tri.. Chức Bố
chánh coi việc thuế khoá, Án Sát coi việc h́nh luật, Lănh Binh coi việc quân
sư.. Đặt thêm thuế muối và thuế Minh hương (người Tàu cư trú ở Việt Nam).
Các triều Thiệu Trị (1841 - 1847), Tự Đức (1847 1883), việc nội trị vẫn theo
nếp cũ.
Việc học thời Nguyễn được khuyến khích theo lối học của Trung
hoa, chú trọng nhiều vào từ chương, khoa cử. Lập miếu thờ Khổng Tử ở các Trấn,
Doanh. Tại Kinh Đô Huế lập thêm Quốc Tử Giám để dạy con cái nhà quyền thế, đặt
chức Đốc học ở Trấn, chức Giáo thụ ở Phủ, Huấn Đạo ở Huyện để trông coi việc
giáo dục.
Năm 1807 mở khoa thi Hương, chọn các cử nhân ra làm việc
triều đ́nh. Vua sai người soạn sách Địa lư và Quốc sử.
Thời này có
nhiều tác phẩm văn chương giá trị như: Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, Hoa Tiên
của Nguyễn Huy Tự, Mai Đ́nh Mộng kư của Nguyễn Huy Hổ.
Thời Minh Mạng
đặt lệ cấp lương cho các giám sinh học ở Quốc Tử Giám và mở khoa thi Hội, thi
Đ́nh để chọn các tiến sĩ. Lập Quốc Sử Quán để sưu tập tài liệu sử Việt Nam.
Thời này có các sách sử, địa như: Đại Nam Thực Lục, Lịch Triều Hiến Chương
Loại Chí của Phan Huy Chú, Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Nhất Thống
Địa Dư Chí của Lê Quang Định, Bắc Thành Địa Dư Chí của Lê Chất.
Có các
tác giả văn học nổi tiếng như: Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Lư Văn
Phức, Hồ Xuân Hương, Phạm Đ́nh Hổ.
Thời Tự Đức, hoàn thành bộ sử có giá
trị là Khâm Định Việt Sử và các bộ Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Lyệt Truyện cùng
sách địa lư như Phương Đ́nh Địa Dư Chí Loại của Nguyễn Văn Siêụ
Thời
này cũng có nhiều tác giả văn chương nổi tiếng như: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn
Siêu, Tuy Lư Vương, Tùng Thiện Vương, Phan Huy Vịnh, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Quư
Tân, Cao Bá Nha.. Văn chương truyền khẩu trong dân gian cũng rất thi.nh. Lại
thêm nhiều tác phẩm có giá trị viết bằng chữ Nôm của các tác giả vô danh.
Về việc ngoại giao, nước Tàu chỉ là cái xác khổng lồ, thế lực suy nhược, nhưng
vẫn được các vua nhà Nguyễn kưnh sơ.. Khi Gia Long lên ngôi đă sai sứ sang Tàu
xin phong và chịu lệ triều cống 3 năm một lần để cầu hoà hiếu với Tàụ Đối với
các nước nhỏ th́ hống hách. Nguyên nước Chân Lạp vốn thuộc quyền bảo hộ của
chúa Nguyễn, đến khi nước Việt bị rối ren th́ Chân Lạp thần phục Xiêm Lạ Sau
khi thống nhất Việt Nam Gia Long sai Lê Văn Duyệt đem binh đánh đuổi quân Xiêm
giành lại quyền bảo hộ Chân Lạp (Campuchia).
Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi
nghĩa chống Minh Mạng, quân Xiêm thừa cơ đó sai 5 đạo binh theo đường Chân
Lạp, Ai Lao sang đánh nước Việt, nhưng bị tướng Trương Minh Giảng dẹp tan. Ai
Lao lại thần phục Việt Nam cùng dâng các đất Trấn Ninh, Savanakhet, Cam Môn và
Sầm Nứạ
Năm 1845, quân Xiêm sang quấy nhiễu Nam Vang, vua Chân Lạp cầu
cứu vua Thiệu Trị, nhà vua bèn sai Nguyễn Tri Phương sang đánh quân Xiêm, lấy
lại Nam Vang. Quân Xiêm cầu hoà, Việt Nam lại nắm quyền bảo hộ Chân Lạp.
Việc bang giao với các nước Tây phương không được tốt đẹp. Ngay từ thời Gia
Long, nhà vua đă từ chối việc thông thương với các nước Tây phương. Gia Long
chỉ đăi ngộ đặc biệt riêng những người Pháp đă có công giúp trong việc đánh
Tây Sơn. Các vua sau không những cương quyết từ chối giao thiệp với Tây phương
mà c̣n ban lệnh cấm đạo Thiên Chúa là đạo do Tây phương truyền đến. Đó là cớ
để Pháp và Tây Ban Nha gây chiến tranh sau nàỵ
Dưới triều Tự Đức có
Nguyễn Trường Tộ là nhân tài sáng suốt đưa nhiều đề nghị canh tân đất nước để
theo kiệp đà tiến bộ khoa học. Về giáo dục ông đề nghị bỏ lối học từ chương,
dạy các môn khoa học thực nghiệm, dùng quốc văn, bỏ chữ Hán và cho học sinh
xuất dương cầu học. Về quân sự ông đề nghị tổ chức và huấn luyện quân đội cùng
trang bị theo lối Âu Mỹ. Về kưnh tế ông đề nghị phát triển canh nông, kư~
nghệ, thương mại và lập đường giao thông cùng khai mỏ. Về ngoại giao ông đề
nghị mở bang giao với các cường quốc Âu Mỹ. Nhưng những điều trần của ông đều
bị bác bỏ.
Vua dốt nát, không quyết đoán. Các quan triều, người v́ địa
vị, quyền lợi tư riêng, người đần độn, tối tăm, nên cứ khăng khăng theo lối hủ
lậụ Những người có trách nhiệm với quốc gia và có địa vị cao mà c̣n tệ như thế
nên nạn nô lệ ngoại dương tất hẳn chẳng thoát được.
XXIIỊ Pháp Xâm
Chiếm Việt Nam
Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)
B.
Thời kỳ đô hộ (1884 - 1945)
1. Chính Sách Thực Dân
2. Công Cuộc
Kháng Pháp Của Dân Tộc Việt Nam
Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)
Từ thế kư? 19, hầu hết các thị trường của Pháp ở Ấn Độ và Trung Hoa đều bị Anh
Cát Lợi chiếm hoặc phong toả. Thị trường lớn của Pháp ở Trung Hoa là Vân Nam
bị chận đường thông thương ở Hương Cảng từ năm 1842 (sau khi Anh thắng Tàu
trong trận "nha phiến"), nên Pháp phải t́m đường khác từ Thái B́nh Dương vào
Vân Nam. Sông Cửu Long bất lợi, v́ vậy phải tính việc dùng sông Hồng Hà.
Lúc đầu, Pháp chỉ muốn được quyền sử dụng các sông kể trên, nhưng sau khi
chiến tranh với Việt Nam th́ thấy triều đ́nh nhà Nguyễn quá yếu hèn và thị
trường Việt Nam cũng trở nên rất quan trọng, v́ thế Pháp đă chiếm trọn để đô
hộ và khai thác.
1. Ba tỉnh Miền Đông Nam kỳ bị thất thủ (1862)
Quân Pháp và Tây Ban Nha lấy cớ triều đ́nh Huế cấm đạo Thiên Chúa mà đem quân
vào can thiệp. Đầu năm 1859 quân Pháp hạ thành Gia Định, Tự Đức sai Nguyễn Tri
Phương vào lập đồn kỳ Hoà lo chống cư.. Năm 1861, quân Pháp hạ đồn kỳ Hoà rồi
tiến chiếm Định Tường, Biên Hoà và Vĩnh Long (1862). Tự Đức cử Phan Thanh Giản
vào Gia Định nghị hoà. Hoà ước kư ngày 9 5 1862, nhượng ba tỉnh miền Đông Nam
kỳ (Gia Định, Biên Hoà, Định Tường) cho Pháp.
2. Ba tỉnh Miền Tây Nam
kỳ thất thủ (1867)
Năm 1863, Tự Đức sai Phan Thanh Giản cầm đầu phái
đoàn sang Pháp để điều đ́nh chuộc lại ba tỉnh miền đông. Vua Pháp chấp thuận
với điều kưện để Pháp bảo hộ luôn sáu tỉnh Nam kỳ. Việc bàn chưa xong th́ Pháp
rút lại đề nghị đó. Thấy vậy vua Tự Đức phải cử Phan Thanh Giản làm kưnh lược
sứ nắm giữ 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ. Mặc dù đă 70 tuổi ông vẫn phải chịu trách
nhiệm khó khăn ấỵ
Quân Pháp viện cớ triều đ́nh Nguyễn giúp nghĩa quân
chống Pháp ở 3 tỉnh miền Đông để tiến quân chiếm nốt ba tỉnh miền Tây: Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên. Phan Thanh Giản liệu sức không cự nổi và sợ dân chết
khổ v́ chiến tranh, nên ra lệnh nộp thành rồi uống thuốc độc tự tử, 1867. Thế
là 6 tỉnh Nam kỳ bị thuộc Pháp.
3. Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất (1873)
Sau khi chiếm Nam kỳ, Pháp thấy sông Cửu Long không thuận tiện cho việc giao
thông với Vân Nam ở Tàu, bèn tính tới con đường sông Hồng Hà. Pháp sai tên
Jean Dupuis giả làm lái buôn dùng sông Hồng Hà để chở hàng vào Vân Nam. Sau
khi thấy sông Hồng Hà thuận tiện cho việc giao thương, tên này trở lại Hà Nội
gây chuyện với quan lại Việt Nam để quân Pháp ở Sài G̣n có cớ ra can thiệp.
Soái phủ Sài G̣n cử tên đại uư Francis Garnier đem binh thuyền ra tấn công Hà
Nộị Quan thủ thành là Nguyễn Tri Phương và con là pḥ mă Nguyễn Lâm cự không
lạị Nguyễn Lâm tử trận, Nguyễn Tri Phương bị bắt rồi ông tự tử chết (1873).
Sau khi chiếm được Hà Nội, Garnier tiến chiếm Ninh B́nh, Nam Định và Hải
Dương.
Triều đ́nh Huế sai Hoàng Kế Viêm tổ chức pḥng thủ. Hoàng Kế
Viêm gọi quân cờ đen giúp sức để lấy lại Hà Nộị Quân Cờ Đen vốn là dư đảng của
quân Thái B́nh bên Tàu chạy sang Việt Nam, được Hoàng Kế Viêm chiêu dụ ở Lào
Caỵ Quân Cờ Đen phục kưch quân Pháp ở Ô Cầu Giấy và giết được Garnier.
Soái phủ Nam kỳ sai Philastre từ Sài G̣n ra Hà Nội lo việc giảng hoà và trả
lại các thành cho Việt Nam rồi lui tầu bè xuống Hải Pḥng. Sau đó Nguyễn Văn
Tường cùng Philastre vào Sài G̣n tiếp tục thương nghi..
Ngày 15 tháng 3
năm 1874, Thượng thư Lê Tuấn, Thượng thư Nguyễn Văn Tường và Thiếu tướng Dupré
cùng kư bản hoà ước 1874, gồm 22 khoản, các khoản chính là:
Việt Nam
nhượng đứt cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ, mở của Ninh Hải (Hải Pḥng), thành Hà Nội
và sông Hồng Hà cho người ngoại quốc vào buôn bán.
Pháp công nhận quyền
độc lập của Việt Nam, không phải thuần phục nước nào nữạ Mọi việc đánh dẹp sẽ
do Pháp lo liệu, và phải y theo sách lược ngoại giao của Pháp.
4. Pháp
đánh Bắc kỳ lần thứ hai (1882)
Về sau, thấy triều đ́nh Nguyễn càng ngày
càng suy nhược, Pháp tính việc chiếm Bắc kỳ. Soái phủ Sài G̣n lấy cớ bảo vệ
quyền lợi của người Pháp, sai đại tá Henri Rivière ra Bắc. Rivière đánh chiếm
Hà Nội ngày 28 tháng 4 năm 1882, quan thủ thành là Hoàng Diệu phải tự tử. Tự
Đức thấy nguy bèn cầu cứu nhà Thanh bên Tàu. Lợi dụng cơ hội này Thanh triều
đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây đợi dịp tranh quyền lợi với Pháp ở
Việt Nam. Pháp cũng tăng cường thêm quân ra Bắc. Khi Rivière đem quân chiếm
Nam Định, quân triều đ́nh cùng quân Cờ Đen tấn công Hà Nộị Rivière vội trở lại
giải vây th́ bị quân Cờ Đen phục kưch, giết chết ở Ô Cầu Giấỵ Pháp thấy nguy
phải cử cấp tướng ra chỉ huy và tăng thêm quân, rồi sai Harmand làm toàn quyền
kưnh lư việc Bắc kỳ.
Dân chúng Bắc kỳ nổi lên kháng Pháp khắp nơi và
quân Việt phản công ở Hà Nội, Nam Định nhưng đều bị thất bạị Trong t́nh trạng
cam go đó, triều đ́nh Huế sinh nhiều việc rối loạn. Tự Đức mất (1883), Dục Đức
lên ngôi được ba ngày th́ lại bị hai tên quyền thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất
Thuyết truất ngôi, lập Hiệp Hoà. Khi đó quân Pháp đánh Thuận An, uy hiếp Huế.
Triều đ́nh phải cử Trần Đ́nh Túc, Nguyễn Trọng Hợp cùng với Harmand, De
Champeaux kư hoà ước ngày 23 7 1883. Hoà ước có 27 khoản. Theo đó triều đ́nh
Huế chịu nhận Pháp bảo hô.. Pháp được đặt công sứ, chỉ huy các tỉnh, vua Việt
chỉ có quyền cai trị từ tỉnh Thanh Hoá tới đèo Ngang.
Hoà ước kư xong
nhưng không thi hành được v́ Bắc kỳ vẫn trong t́nh trạng chiến tranh, quân Tàu
và quân triều đ́nh vẫn tiếp tục đánh. Pháp phải gọi thêm quân tiếp viện từ
chính quốc sang rồi tiến chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hưng Hoá, Tuyên
Quang. Quân Tàu thua, phải rút lên vùng biên giới Hoa Việt, quân Nam phải lui
về Huế. Ỏ Huế, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vẫn tiếp tục gây rối, phế
vua Hiệp Hoà lập vua Kiến Phúc. Triều đ́nh Huế yêu cầu Pháp kư hoà ước khác để
quyền hành của vua Việt được nới rộng hơn. Nguyễn Văn Tường cùng Patenôtre kư
hoà ước ngày 6 6 1884, gồm 19 khoản. Hoà ước này cũng như hoà ước 1883, nhưng
giới hạn cai trị của triều đ́nh Huế được nới rộng thêm từ Thanh Hoá tới B́nh
Thuận.
Tại vùng biên giới Hoa Việt, quân Tàu vẫn chiếm đóng, quân Pháp
tiến đánh nhưng bị thất trận ở Bắc Lệ và Lạng Sơn. Nước Pháp bèn đem hải quân
đánh Phúc Châu và Đài Loan của Tàụ Trung Hoa phải kư hoà ước Thiên Tân năm
1885, nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam và rút quân về Tàu.
Xem
vậy, việc bang giao giữa nước này với nước khác đều v́ lợi, nhưng nước mạnh
bao giờ cũng trưng việc nghĩa để che đậy ư gian, rồi kết quả mọi điều lợi đều
về nước mạnh, chứ chẳng v́ nghĩa chi cả. Thế mà triều đ́nh Huế, cũng như nhiều
người cứ u u, mê mê đi cầu cạnh người, không biết lo làm cho dân giầu, nước
mạnh, thật là phường ích kư?, vị lợi chỉ biết chăm lo bản thân mà coi thường
quốc gia dân tộc.
Sau nhiều năm chiến tranh và qua 4 bản hoà ước 1862,
1874, 1883 và 1884 nước Pháp đă hoàn tất việc xâm lăng thực dân ở Việt Nam.
Nam kỳ trở thành thuộc địa, Bắc kỳ là đất bị bảo hộ và Trung kỳ là nơi Pháp
lập chế độ trú sứ, nhưng trên thực tế cả ba miền đều là thuộc địa của Pháp,
nhà Nguyễn ở Huế không có quyền hành ǵ cả.
Hoà ước 1884 xác định quyền
đô hộ của Pháp ở Việt Nam đă thi hành tới ngày 9 tháng 3 năm 1945.
B.
Thời kỳ Pháp Đô Hộ (1884 - 1945)
1. Chính sách thực dân
2. Công
cuộc kháng pháp của dân Việt Nam
1. Chính sách thực dân
Theo hoà
ước 1884, chế độ cai trị của Pháp được phân biệt tùy miền. Nam kỳ thuộc địa,
Bắc kỳ bảo hộ, Trung kỳ trú sứ. Nhưng trên thực tế cả ba miền đều bị chung
dưới ách đô hộ như nhaụ Mọi quyền hành đều nằm trong tay người Pháp. Sau khi
chiếm Việt Nam và Ai Lao, Cao Mên, Pháp thiếp lập chế độ thuộc địa chặt chẽ.
Lúc đầu mỗi xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao Mên) có một viên thủ
hiến lo việc cai tri.. Đến năm 1887 Pháp thiết lập phủ Toàn quyền để thống
nhất việc cai trị toàn vùng (Đông Dương). Tại mỗi xứ, cắt đặt như sau: Thống
Đốc Nam kỳ, Khâm Sứ Trung kỳ, Khâm Sứ Cao Mên, Thống Sứ Bắc kỳ, Thống Sứ Ai
Laọ Các viên chức này đều phải theo lệnh của viên Toàn Quyền.
Dân chúng
Việt Nam bị đầy đoạ khốn cực, bị bóc lột tận cùng, phải chịu khổ nhục để phục
vụ lớp quan đô hộ, phải chịu sưu cao thuế nặng để bọn này hưởng thụ và chi
dùng vào việc chém giết dân Việt. Hơn thế nữa, thực dân Pháp dùng mọi cách để
phá huỷ cơ cấu văn hoá Việt.
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân tộc Việt
Nam
Ngay khi ba tỉnh miền đông Nam kỳ bị thất thủ, nghĩa quân miền Nam
nổi lên đánh Pháp, nhưng thế lực c̣n yếu nên đều bị thất bạị Tuy vậy, trong
suốt thời gian bị đô hộ, dân Việt trên toàn quốc liên tiếp khởi nghĩa đuổi
Pháp, qua các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Đông Du, Duy Tân và các đảng
phái quốc gia.
* Miền Nam
- Trương Công Định (Trương Định) 1860
- 1864
Trương Công Định chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ ở G̣ Công, đánh
theo lối du kưch, gây nhiều thiệt hại cho quân đi.ch. Trận lớn nhất là trận
Cần Giuộc. Về sau bị tên Huỳnh Công Tấn phản bội, chỉ điểm cho Pháp vây đánh
ông ở Kiến Phước (G̣ Công). Trận này ông bị đạn rồi tự tử, năm 1864.
-
Nguyễn Trung Trực 1860 - 1868
Nguyễn Trung Trực kháng chiến ở Tân An,
Rạch Giá, chiến thắng lớn trong trận đốt tầu Pháp ở vàm Nhật Tảo (Tân An) và
trận đánh thành Kiên Giang (Rạch Giá), sau lập chiến khu ở đảo Phú Quốc. Tên
Việt gian Huỳnh Công Tấn bày mưu bắt mẹ ông, ông phải bỏ khí giới để cứu me..
Ông bị Pháp chém ở Kiên Giang (27-10-1868)
- Phan Ṭng 1869 - 1870.
Khởi nghĩa ở Hóc Môn, G̣ Vấp, Ba Tri.
- Tri Huyện Thoại (Đỗ Trinh
Thoại) 1861. Hoạt động ở vùng Mỹ Tho, Cao Lănh, Cai Lậỵ
- Thiên Hộ
Dương (Vơ Duy Dương) 1860 - 1886. Lập chiến khu ở Đồng Tháp Mườị Cuối năm
1886, ông bị mắc bệnh chết.
- Thủ Khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân) 1862 -
1875. Kháng chiến ở Mỹ Tho và Tân An.
- Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân
Phụng 1874 - 1875. Khởi nghĩa ở Trà Vinh.
- Lê Tấn Kế, Trần B́nh 1874 -
1875. Khởi nghĩa ở Ba Đô.ng.
- Phan Tôn, Phan Liêm (con Phan Thanh
Giản). Khởi nghĩa ở Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh và Bến Trẹ
- Quản Hớn,
Nguyễn Văn Bường 1885. Khởi nghĩa ở 18 Thôn Vườn Trầu, Bà Điểm, Hóc Môn thuộc
Gia Đi.nh.
- Phan Văn Đạt, Lê Cao Dơng khởi nghĩa ở miền Nam, bị Pháp
bắt và bị giết.
* Miền Trung
- Vua Hàm Nghi lănh Đạo Phong Trào
Cần Vương
Vua Kiến Phúc mất, hai phụ chánh Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất
Thuyết lập vua Hàm Nghi (1884). Chính phủ Pháp đ̣i tham dự vào việc phế lập và
đ̣i triều đ́nh Huế phải để Pháp phong vương cho vua Hàm Nghị Khi đó khắp nơi
đều có nghĩa quân nổi lên và triều đ́nh th́ dùng dằng chưa quyết định thi hành
hoà ước 1884. Tướng Pháp De Courcy bèn đem quân vào Huế bắt triều đ́nh phải
chịu nhận bảo hộ ngaỵ Triều đ́nh chống lạị Đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4 tháng 7
năm 1885 quân Nam tấn công dinh Khâm Sứ và đồn quân Pháp ở Mang Cá. Ngày hôm
sau quân Nam thất thủ, phải bỏ kưnh thành. Tôn Thất Thuyết đem vua Hàm Nghi ra
Quảng Trị, tiếp tục đánh Pháp. Nguyễn Văn Tường về Huế đầu hàng rồi lập Đồng
Khánh lên làm vua.
Vua Hàm Nghi ở Quảng Trị phát hịch kêu gọi dân chúng
nổi lên chống Pháp rồi lui về Tân Sở và tính ra Bắc nhưng không thành. Sĩ phu
trong nước hưởng ứng rất đông, nổi lên ở nhiều nơị Đồng Khánh ở Huế nhiều lần
sai người đi mời vua Hàm Nghi và chiêu dụ các cựu thần, nhưng không ai chịu về
hàng Pháp.
Về sau Pháp mua chuộc được tên hầu cận vua Hàm Nghi là
Trương Quang Ngọc, tên này bắt vua nộp cho Pháp (1888), nhà vua bị Pháp đầy
sang Algérie, thuộc địa Pháp ở Châu Phi.
- Phan Đ́nh Phùng
Hưởng
ứng hịch Cần Vương, Phan Đ́nh Phùng được vua Hàm Nghi trao quyền chỉ huy nghĩa
binh (1886). Sau khi vua bị bắt, ông tiếp tục kháng chiến và chỉ huy Phong
Trào Văn Thân, lập chiến khu ở Ngà
- Hoàng Hoa Thám
Khi kháng
chiến chống Pháp, Hoàng Hoa Thám được triều đ́nh phong làm Đề Đốc nên thường
gọi là Đề Thám. Năm 1886, ông lập chiến khu ở Yên Thế, Bắc Giang. Kháng chiến
ṛng ră 25 năm gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp. Dân chúng rất ngưỡng mộ,
gọi ông là hùm thiêng Yên Thế. Nhiều lần thế lực suy yếu, ông phải trá hàng,
vào những năm 1894 và 1897, để chỉnh đốn hàng ngũ rồi lại tiếp tục đánh Pháp.
Năm 1908, ông mưu đánh úp Hà Nội nhưng bị thất bạị Về sau quân Pháp mua chuộc
thủ hạ của ông là tên Lương Tam kỳ, lập kế ám sát ông (1913).
- Vua
Thành Thái và Vua Duy Tân chống Pháp
Vua Đồng Khánh chết non (1888, lúc
25 tuổi), Pháp lập vua Thành Thái con vua Dục Đức, lúc đó mới 10 tuổị Lớn lên,
nhà vua hiểu rơ t́nh trạng đất nước nên phản đối Pháp và t́m cách liên lạc với
các nhà cách mạng Việt Nam ở hải ngoại như kỳ Ngoại Hầu Cường Để. V́ thế vua
Thành Thái bị Pháp bắt thoái vị và bị đầy sang đảo Réunion (Phi Châu) (1907).
Pháp lập Hoàng Tử Vĩnh San, mới 8 tuổi lên ngôi lấy hiệu là Duy Tân. Năm 1912,
vua Duy Tân yêu cầu nước Pháp thi hành đúng tinh thần bản hoà ước 1884, nhưng
không có kết quả.
Năm 1916, nhà vua lănh đạo đảng Tân Việt, cùng với
các nhà ái quốc Trần Cao Vân và Thái Phiên để mưu việc khởi nghĩạ Kế hoạch bị
bại lô.. Pháp đầy vua Duy Tân sang đảo Réunion. Các người tham dự vào kế hoạch
khởi nghĩa đều bị Pháp giết hoặc bị đầỵ
Sau đó, thực dân Pháp lập con
vua Đồng Khánh (vị vua dễ sai bảo) lên ngôi năm 1916, lấy hiệu là Khải Đi.nh.
Năm 1925, Khải Định mất, con là Vĩnh Thuỵ, đang học tại Pháp, được gọi về lên
ngôi, lấy hiệu là Bảo Đạị Ông này không thiết tha tới việc nước, nên đă kư
thêm Hiệp định ngày 25 11 1925 trao mọi quyền hành cho viên Khâm sứ Huế và cho
Tôn Thất Hân làm phụ chánh để lo việc cúng tế, rồi lại qua Pháp. Năm 1932, Bảo
Đại về Việt Nam, nhưng chỉ lo ăn chơi, không có quyền hành ǵ cả. Mọi việc
trong nước đều do viên Toàn Quyền Pháp nắm giữ.
* Phong Trào Đông Du
Sau khi Phong trào Cần Vương tan ră, nhà ái quốc Phan Bội Châu, người Nghệ An,
đứng ra kết nạp các nghĩa sĩ Cần Vương c̣n sót lại (1902). Ông đi khắp trong
nước t́m đồng chí để thực hiện chương tŕnh giải phóng quốc dân. Ông thành lập
hội Duy Tân và tôn kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cháu đích tôn vua Gia Long, làm Hội
Chủ. Để khích động đám sĩ phu trong nước, Phan Bội Châu viết "Lưu Cầu Huyết
Lệ", rất được truyền tụng, có công dụng làm sống lại ḷng yêu nước của dân
chúng. Các đồng chí quan trọng đă cùng Phan Bội Châu bôn ba khắp trong nước
cũng như ngoại quốc là Trịnh Hiền, Lê Vơ, Đặng Thái Thân, Thái Nam Xương,
Trịnh Công Kiều, Chu Thư Đồng, Tôn Thất Toại, Đặng Nguyên Cẩm, Ngô Đức Kế,
Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quư Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Ngọc
Can v.v...
Năm 1904, Nga Nhật chiến tranh kết liễụ Sự thắng lợi vẻ vang
của Nhật gây xúc động mạnh mẽ trong tầng lớp sĩ phu và các nhà ái quốc Việt
Nam. Nhờ đó, khuynh hướng Đông Du (sang Nhật) cầu học được nhiều người hưởng
ứng.
Năm 1095, Phan Bội Châu cùng Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính khởi hành
đi Hồng Kông, Thượng Hải rồi sang Nhật. Tại Nhật cụ Phan tiếp xúc với học giả
Trung Hoa Lương Khải Siêu, đang tị nạn tại Tokyọ Lương Khải Siêu giới thiệu cụ
với các chính khách Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Bá tước Đại Ôi (đă hai lần làm
Thủ tướng). Cụ Phan ngỏ ư cầu viện nhưng bị từ chối.
Cường Để sang Nhật
năm 1906. Chương tŕnh du học Nhật Bản được Nguyễn Hải Thần tích cực giúp đỡ.
Về sau han Bội Châu và Phan Chu Trinh bất đồng ư kưến về kế hoạch cứu
quốc. Phan Bội Châu chủ trương bài Pháp, dành độc lập. Phan Chu Trinh chủ
trương bài quân chủ, dựa vào Pháp để cầu học Thái Tây, ông bỏ về nước cổ xuư
cho lập trường của ḿnh.
Năm 1910, Pháp điều đ́nh với Nhật trục xuất
các nhà cách mạng và du học sinh Việt Nam. Phan Bội Châu phải chạy sang Trung
Hoa, rồi bôn ba nhiều nơi: Xiêm La, Nam Dương. Khi được tin cách mạng Trung
Hoa thành công (1911) cụ lại sang Tàu hoạt đô.ng. Năm 1912, cụ giải tán Duy
Tân Hội để lập Việt Nam Quang Phục Hội, chủ trương Dân Chủ Cộng hoà. Hội giúp
đỡ du học sinh và hô hào cách ma.ng. Năm 1913, Pháp (Toàn Quyền Sarraut) mưu
với Đô đốc Quảng Đông là Long Tế Quang bắt giam Phan Bội Châụ Cùng năm đó, ở
trong nước Hội Đồng Đề H́nh Pháp xử 14 án tử h́nh, trong đó Phan Bội Châu và
Cường Để bị tử h́nh vắng mặt. Năm 1917, Long Tế Quang bị quân cách mạng Trung
Hoa đánh thua, cụ Phan được thả ra.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí
Minh) âm mưu bắt cóc Phan Bội Châu ở Thượng Hải (Trung Hoa) giao cho Pháp.
Phan Bội Châu bị Pháp kết án chung thân khổ saị Đồng bào toàn quốc biểu t́nh
đ̣i tự do cho cụ, Pháp nhượng bộ, bắt cụ Phan an trí ở Huế. Phan Bội Châu mất
năm 1940.
Phong Trào
Duy Tân
Biến cố Nhật thắng Tàu năm 1894 và Nhật thắng Nga năm 1904, đă
làm các dân tộc Châu Á thức tỉnh. Ỏ Trung Hoa, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi
hô hào cải cách Duy Tân. Ỏ Việt Nam, các chí sĩ hăng hái trong phong trào Duy
Tân, đề cao dân quyền gồm có Phan Chu Trinh, Đặng Tử Kính, Trần Quư Cáp, Huỳnh
Thúc Kháng, Ngô Đức Kế.
Năm 1906, Phan Chu Trinh sang Nhật, gặp Phan
Bội Châu; Nhưng hai người bất đồng ư kưến. Phan Chu Trinh trở về hoạt động
trong nước. Năm 1908, nhân vụ biểu t́nh yêu cầu giảm nhẹ sưu thuế của dân các
tỉnh Quảng Ngăi, Quảng Nam, Thừa Thiên, một số nhân sĩ Trung, Bắc kỳ bị bắt,
trong đó có Phan Chu Trinh. Cụ bị đầy ra đảo Côn Lôn.
Năm 1911, nhờ Hội
Nhân Quyền Pháp can thiệp Phan Chu Trinh được thạ Cụ qua Pháp, làm nghề chụp
ảnh. Năm 1922, Khải Định sang Pháp, cụ gởi thơ chỉ trích, năm 1925, cụ về
nước. Năm sau, Phan Chu Trinh mất ở Sài G̣n.
Một tổ chức có ảnh hưởng
rất nhiều cho công cuộc duy tân là trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Trường mở ở Hà
Nội năm 1907, do các ông Nguyễn Quyền, Ngô Đức Kế, Lương Ngọc Can, Dương Bá
Trạc,& #272;ào Nguyên Phổ, Phan Huy Thịnh, Hoàng Tăng Bí... đứng ra tổ chức.
Trường dạy miễn phí cho các thanh niên nam nữ cả ba thứ chữ Việt, Pháp, Hán.
Việt văn, khoa học, công nghệ thường thức được chú trọng đặc biệt. Trường cũng
thường tổ chức các buổi diễn thuyết về văn hoá, khoa học ... Trường soạn sách
giáo khoa và các bài hát khích động ḷng yêu nước, phát không cho dân chúng.
Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ hoạt động được 9 tháng th́ bịPháp bắt đóng cửa.
* Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến (con cụ
Lương Ngọc Can, người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục) đă từng học trường vơ bị
Chấn Vơ ở Nhật Bản, tham dự vào đoàn quân cách mạng Trung Hoạ Bị người Anh bắt
ở Hương Cảng rồi giao cho Pháp, bị giam ở Thái Nguyên. Trong ngục ông tiếp tục
cổ động ái quốc, được nhiều người nghe theo, trong đó có Trịnh Văn Cấn là một
hạ sĩ quan cấp Đội (trung sĩ) thuộc đơn vị Khố Xanh của Pháp ở Thái Nguyên.
Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn định kế hoạch khởI nghĩạ Đêm 31 tháng 8 năm
1917, Trịnh Văn Cấn nổi lên lấy danh nghĩa Quang Phục quân, mang 200 binh lấy
thành Thái Nguyên. Trịnh Văn Cấn được phong làm Quang Phục quân Đại Đô Đốc.
Quân Pháp phải đem đại binh từ Hà Nội lên đánh. Quang Phục quân giữ Thái
Nguyên được 3 ngày th́ phải rút vào rừng. Lương Ngọc Quyến, v́ bị Pháp tra tấn
làm liệt chân, không theo nghĩa quân được nên tự tử.
Trịnh Văn Cấn ẩn
nấp trong vùng Tam Đảo, Yên Thế tiếp tục đánh Pháp được vài tháng. Đến khi
quân bị hao ṃn, thế lực suy tàn, Trịnh Văn Cấn tự tử ở vùng núi Phú Tho..
* Việc Ném Tạc Đạn ở Sa Điện, Quảng Châu
Năm 1923, viên toàn quyền Đông
Dương là Martial Merlin trên đường từ Nhật trở lại Việt Nam, ghé tớI Sa Điện,
Quảng Châu (Trung Quốc) để dự bữa tiệc do Pháp kiều ở đây khoản đăi tại khách
sạn Victoriạ Đương khi ăn, tên này bị nhà ái quốc Phạm Hồng Thái ném tạc đạn,
nhưng hắn thoát chết. Bị thất bại, Phạm Hồng Thái nhẩy xuống sông tự trầm.
* Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Phan Bội Châu bị bắt năm 1925 và Phan Chu
Trinh chết năm 1926 đă gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là tầng lớp
thanh niên trí thức.
Năm 1927, một đảng chính trị cách mạng đầu tiên ra
đời do Nguyễn Thái Học lănh đạo. Nguyễn Thái Học đă từng tranh đấu ôn hoà với
Pháp nhưng không có kết quả, nên ông chủ trương dùng vơ lực. V́ thế, Việt Nam
Quốc Dân Đảng được thành lập, với mục đích giành độc lập cho đất nước. Năm
1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng định kế hoạch khởi nghĩa chiếm lại Bắc kỳ. Nguyễn
Thái Học ra lệnh tổng khởi nghĩa vào ngày 10 2 1930, nhưng lệnh không tới kư.p
các địa phương, nên cuộc khởi nghĩa không đúng ngày đă hoạch đi.nh.
Đêm
ngày mồng 9 rạng ngày mồng 10 tháng 2 năm 1930, chi bộ Yên Báy khởi công đánh
các trại lưnh Pháp, giết được nhiều đi.ch. Đến sáng ngày hôm sau, quân Pháp
phản công kư.ch liệt, nghĩa quân bị tan ră.
Đêm mồng 9 tháng 2, Nguyễn
Khắc Nhu đánh Hưng Hoá và Lâm Thao bị Pháp phản công mạnh, quân cách mạng
thua, Nguyễn Khắc Nhu tự tử.
Đêm mồng 10 tháng 2, Đoàn Trần Nghiệp (Kí
Con) chỉ huy đánh Hà Nộị
Đào Văn Thế chỉ huy mặt trận Thái B́nh chiếm
được huyện Phủ Dực.
Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 2, Trần Quang Diệu chỉ
huy mặt trận Hải Dương chiếm huyện Vĩnh Bảọ
Nguyễn Thái Học chỉ huy
đánh đồn Phả Lại.
Pháp dùng toàn lực không quân và bộ binh phản công,
ném bom tiêu diệt làng Cổ Am nơi có nhiều quân cách ma.ng. Ỏ khắp nơi, nghĩa
quân đều bị thất bạị Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Hải Dương) ngày 20
tháng 2. Ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái Học và 12 nhà cách mạng Việt
Nam Quốc Dân Đảng bị Pháp chém tại Yên Bái.
* Cuộc Khởi Nghĩa Lạng Sơn
Trong đại chiến thứ hai (1939 1945) Pháp đầu hàng Đức. Nhật cùng phe với Đức,
đánh chiếm Trung Hoa rồi tràn qua biên giới Việt Hoa ngày 22 8 1940. Nhân cơ
hội đó, Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm chỉ huy đoàn quân Việt Nam Phục Quốc
Hội nổi lên đánh quân Pháp ở Lạng Sơn và vùng lân cận.
Nhưng về sau có sự thoả hiệp giữa Nhật và Pháp, quân phục quốc bị Nhật
bỏ rơi, nên đă bị Pháp đánh thua. Trần Trung Lập bị bắt, Đoàn Kiểm Điểm tử
trận.
* Các Đảng Phái, Tổ Chức Chính Trị Khác
Ngoài các tổ chức
kháng Pháp kể trên, người Việt c̣n thành lập nhiều đảng phái, tổ chức chính
trị khác để tranh đấụ
- 1923, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long lập
đảng Lập Hiến với chủ trương ôn hoà và bảo thủ.
- 1930, Phạm Quỳnh tranh đấu ôn hoà. Kết quả, được
Pháp mời làm thượng thự
- 1925, Lê Văn Huân lập đảng Phục Việt, sau đổi
tên là Tân Việt Cách Mạng Đảng. Hoạt động tích cực chống Pháp, bị Pháp và Cộng
Sản tiêu diệt.
- 1927, Nguyễn An Ninh tổ chức đảng bí mật ở Hóc môn có
khuynh hướng Cộng Sản, bị Pháp bắt đầy ra Côn Lôn.
- 1932, Tạ Thu Thâu,
Trần Văn Thạch lập đảng, theo khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế (Cộng Sản Đệ Tứ) hoạt
động ở Sài G̣n.
- 1937, Nguyễn Văn Thinh thành lập phong trào Dân Chủ ở
Nam kỳ.
- Lư Đông A thành lập đảng Đại Việt Duy Dân, có lư thuyết vững
chắc nhưng tầm mức hoạt động hạn hẹp.
- 1940, Nguyễn Tường Tam thành
lập Đại Việt Dân Chính, (sau đổi tên là Đại Việt Quốc Xă) dựa vào thế lực Nhật
Bản để chống Pháp, nhưng sau bị Nhật bỏ rơị Pháp thẳng tay đàn áp, một số đảng
viên bị bắt, Nguyễn Tường Tam trốn sang Tàụ
- 1941, Trương Tử Anh thành
lập đảng Đại Việt Quốc Dân. Bị Pháp đàn áp, đảng bị suy sụp.
- 1943
1944, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Vũ Đ́nh Di lập Việt Nam Ái Quốc Đảng.
-
Vũ Đ́nh Hoè, Dương Đức Hiền lập Dân Chủ Đảng.
- 1945, Nhượng Tống,
Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Tiếu thành lập Đại Việt Quốc Gia Lyên Minh (gồm
Việt nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Xă và các đảng phái quốc gia khác).
Hầu hết đảng phái quốc gia không có nguyên lư hành động độc lập. Nhất là sinh
hoạt chính trị chỉ lẩn quẩn ở trong tầng lớp xa rời quần chúng.
Vào
thời Việt Pháp chiến tranh, thói thường các nhà cách mạng Việt Nam mỗi khi bị
truy lùng thường trốn sang Trung Hoa, nương náu ở vùng Hoa Nam giáp giới với
nước Việt, như Quảng Châu, Nam Ninh, Vân Nam ... Trong thời gian Đại Chiến thứ
hai, ở vùng này có người của các đảng: Phục Quốc, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại
Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Dân, Đại Việt Duy Dân v.v. cùng các lănh tụ có
uy tín như: Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Lư Đông A ... Lúc đó chính phủ
Trung Hoa có ư dung túng những nhà cách mạng Việt Nam v́ muốn lợi dụng họ vào
việc đối phó với Pháp về vấn đề quyền lợi ở Việt Nam. Người cầm quyền ở Quảng
Đông là Trương Phát Khuê và Tiêu Văn được lệnh tập họp các nhà cách mạng Việt
Nam vào một mặt trận duy nhất.
Tháng 10 năm 1942 họp đại hội ở Lyễu
Châu (Đông Dương Cộng Sản Đảng không được mời). Đại diện các đảng cách mạng
đồng ư cùng gia nhập vào một mặt trận gọi là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội,
Nguyễn Hải Thần được cử làm Chủ ti.ch. Nhưng v́ bất đồng ư kưến, không thành
lập nổi Ban Quản Trị Trung Ương.
Tháng 3 năm 1944, đại hội lần thứ hai
được thiết lập ở Liễu Châụ Lần này đại hội thoả thuận lập chính phủ Cộng Hoà
Việt Nam Lâm Thờị Trương Bội Công được cử làm Chủ tịch và các uỷ viên gồm có
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Tùng Sơn, Nghiêm Kế Tổ, Bồ Xuân Luật, Hồ Chí
Minh. Chủ trương đánh Phát xít Nhật và Thực dân Pháp để thâu hồi độc lập cho
Việt Nam.
Chính phủ lâm thời c̣n đang dùng dằng bàn kế hoạch, chưa
quyết định hành động th́ Hồ Chí Minh đă lợi dụng chiêu bài quốc gia đó tức tốc
về Việt Nam vận động cướp chính quyền Trần Trọng Kim ngày 25 tháng 8 năm 1945.
XXIV. Nhật tranh quyền đô hộ với Pháp ở Việt Nam
Năm 1940, Pháp đầu hàng Đức, phải nhận để Nhật
lập căn cứ chống Mỹ ở Việt Nam.
Năm 1945, phe Trục Đức Nhật Ư yếu thế,
Pháp ngầm chuẩn bị đánh đuổi Nhật khỏi Việt Nam.
Ngày 9 3 1945 Nhật vội
tấn công lật Pháp để giành quyền cai trị ở Việt Nam.
Ngày 11 3 1945 vua
Bảo Đại tuyên bố huỷ bỏ hoà ước Việt Pháp 1884, cuộc đô hộ của thực dân Pháp
chấm dứt.
Trần Trọng Kim thành lập chính phủ, nhưng mọi quyền hành đều
do Nhật nắm giữ. Nhật và Pháp cộng tác trong kế hoạch tiêu huỷ thực phẩm, gây
nạn đói khủng khiếp ở Việt Nam vào tháng 3 năm 1945. Khoảng 2 triệu người bị
chết đói.
Tháng 8 năm 1945, Mỹ thả bom nguyên tử ở Nagasakư và
Hiroshimạ Nhật đầu hàng ngày 15 - 8 - 1945. Nước Việt Nam bị quốc tế phân đôi,
trao quyền cho Anh quản trị ở miền Nam và cho Trung Hoa ở miền Bắc.
Từ
ngày ấy, nước Việt bị rơi vào nạn chiến tranh giành giật giữa các thế lực đế
quốc.
* Phụ Chương
Khái quát
việc tranh chấp giữa các đế quốc ở Việt Nam
Sau cuộc cách mạng Cộng sản
thành công tại Nga 1917, một hệ thống tư tưởng mới của Tây phương được trang
bị bằng vũ lực đă trở nên khủng khiếp cho nhân loại. Hệ thống tư tưởng này chủ
trương biến con người thành con vật và khai thác triệt để yếu tố mâu thuẫn
trong mọi cơ cấu xă hội để ḱm kẹp dân chúng. Tư tưởng của Karl Max đă được
trang bị bằng những phương tiện giết người để huỷ diệt nhân tính. Sau khi cộng
sản thắng thế ở Nga th́ ảnh hưởng này tràn lan mau lẹ vào các quốc gia c̣n
trong t́nh trạng nghèo đói và bị ngoại bang đô hô..
Năm 1920, đảng Cộng
sản Trung Hoa thành lập, Borodine cố vấn Nga ở Tàu tiếp nhận Nguyễn Ái Quốc,
một thanh niên Việt Nam đang hoạt động tại Tàu (sau này Nguyễn Ái Quốc đổi tên
là Hồ Chí Minh), Nguyễn Ái Quốc sau khi được Cộng sản Nga huấn luyện th́ thành
lập đảng Cách Mệnh Thanh niên Đồng chí Hội (1925) ở Quảng Châu (Trung Hoa), do
Bododine lănh đạo tối caọ Hội này là chi bộ Việt Nam của hội Á Tế Á Nhược Tiểu
Dân Tộc do Cộng Sản Đệ Tam lănh đạọ Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc c̣n lập các đảng
Cộng sản ở trong nước. Năm 1929, các đảng này cử đại biểu họp ở Hương Cảng,
định đổi tên Cách Mệnh Đồng Chí Hội thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Nhưng kết
quả là Cộng Sản Bắc kỳ lập Đông Dương Cộng Sản Đảng, Cộng Sản Trung kỳ lập An
Nam Cộng Sản Đảng. Trong thời gian này thế lực của Quốc Dân Đảng Trung Hoa c̣n
mạnh và đảng Cộng Sản không được dân chúng chấp nhận nên Nguyễn Ái Quốc trá
lập Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh hội năm 1941, gọi tắt là Việt Minh để
lôi kéo những phần tử quốc gia. Nhưng chính phủ Trung Hoa vẫn biết Việt Minh
là Cộng Sản nên bắt Nguyễn Ái Quốc vào năm 1942. Tới năm 1943, v́ muốn đoàn
kết đảng phái Việt Nam nên Nguyễn Hải Thần xin tha cho Nguyễn Ái Quốc. Được
tha rồi, Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh.
Năm 1945, nhận lệnh của
Cộng Sản Nga, Hồ Chí Minh về Việt Nam vận động quần chúng bằng danh nghĩa các
đoàn thể cách mạng quốc gia để cướp quyền cai tri.. Sau các cuộc biểu t́nh của
dân chúng Việt Nam từ ngày 15 tháng 8 tới 19 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh
cướp được quyền cai trị của chính phủ Trần Trọng Kim (ngày 25 - 8 - 1945)
Theo Hiệp Định Quốc Tế Yalta và Potsdam (Yalta: kư giữa Anh Churchill, Mỹ
Roosevelt, Nga Stalin ngày 11- 2 - 1945. Potsdam: kư giữa Anh Clement Attlee,
Mỹ Truman, Nga Stalin), sau đại chiến thứ hai, nước Việt Nam bị phân đôi theo
vĩ tuyến 16. Miền Nam do quân đội Anh quản lư. Miền Bắc do quân đội Trung Hoa
quốc gia kiểm soát. Ở miền Nam, Mounbaten chỉ huy quân đội Anh Ấn cho phép
Pháp là đồng minh của họ trở lại Việt Nam thay thế Anh. Pháp Cedile mang quân
nhẩy dù chiếm Sa Đéc ngày 19 - 5 - 1945. Sau đó tướng Leclerc đổ bộ Sài g̣n.
Pháp lại điều đ́nh với Trung Hoa để được tự do hoạt động ở miền Bắc. Cùng lúc
đó Hồ Chí Minh t́m cách lột vàng của nhân dân để đút lót cho Tiêu Văn, Lư Hán
và Hoàng Cường là các người chỉ huy quân đội Trung Hoa đóng ở miền Bắc lúc đó,
để đoàn quân ô hợp này rút về bên kia biên giới và trao quyền cho Hồ Chí Minh.
Hồi 8 giờ tối ngày 19 - 12 - 1946 Pháp khởi chiến đánh Hà Nội, mở đầu cho cuộc
chiến tranh giành quyền lợi ở Việt Nam giữa Cộng Sản và Thực dân. Cuộc chiến
tranh nhơ bẩn và khủng khiếp kéo dài tới ngày 20 - 7 - 1954.
Theo Hiệp
Định Genève (kư ngày 20 - 7 - 1954), Việt Nam bị chia làm hai, lấy vĩ tuyến 17
làm ranh giớị Miền Bắc thuộc ảnh hưởng Cộng sản (Nga, Tàu), miền Nam thuộc ảnh
hưởng Thực dân Pháp. Tại miền Bắc, thế lực Cộng sản càng ngày càng được củng
cố và bành trướng. Nga cộng chỉ tích cực gia tăng khả năng chiến tranh cho
Cộng sản Việt Nam, nên đời sống dân chúng miền Bắc vô cùng khổ cực, bị đày đọa
đói rét. Tại miền Nam, thế lực quốc tế chuyển biến khác với năm 1954. Ngày 23
- 10 - 1955 sau cuộc trưng cầu dân ư, chế độ quân chủ chấm dứt. Bảo Đại, vị
vua cuối cùng của nhà Nguyễn, tay sai cho Pháp, bị truất phế.
Ngày 26 -
10 - 1955, chính phủ dân cử Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố nước Việt Nam theo chế độ
Cộng Hoà và là một nước Độc lập. Chế độ đô hộ của Pháp chấm dứt. Quân đội Thực
dân rút khỏi Việt nam.
Trước đó, năm 1954, Ngô Đ́nh Diệm trở về Việt
Nam làm Thủ tướng nhờ thế lực của Mỹ. Ông lại dùng thế lực Mỹ để đuổi Pháp ra
khỏi nước (1955). Về sau, Ngô Đ́nh Diệm muốn thực hiện nền tự trị, nhưng không
được Mỹ chấp thuận. Ông từ chối việc để Mỹ mang quân vào Việt Nam. Nhưng đến
khi Mỹ mở đường cho Cộng Sản tấn công miền Nam (1958), Ngô Đ́nh Diệm đă phải
để Mỹ "tăng viện trợ" quân sư.. Tuy nhiên vẫn không chấp thuận cho quân Mỹ xâm
nhập. Ông bị Mỹ giết ngày 1 tháng 11 năm 1963. Từ đó Mỹ cho những bộ hạ người
Việt dễ sai bảo ra lập chính quyền bù nh́n để Mỹ toàn quyền thao túng.
Mỹ đă dùng Việt Nam như một địa bàn thử nghiệm chiến tranh và dùng Nga, Tàu
(qua chiến tranh ở Việt Nam) để quân b́nh thế đối lực, hầu giải quyết t́nh
trạng bành trướng thái quá của ḿnh. T́nh trạng này là nguyên nhân đổ vỡ thế
lực Mỹ trên thế giớị
Sau nhiều năm chiến tranh, Mỹ chuyển đổi phương
cách khác nên rút về nước (1975) để Cộng Sản toàn quyền cai trị ở Việt Nam.
Viết xong tại Ottawa, Canada
Ngày 26 tháng 2 năm 1982
Tài Liệu Tham
Khảo :
Annam chí lược Lê Tắc
A description of the kưngdom of
Tonquin Samuel Baron
Bài tựa "Ngạn Ngữ Phong Dao" Nguyễn can Mộng
Cơ Cấu
Việt Nho Kim Định
Cổ Sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài g̣n) Trần Kính
Ḥa
Cổ Sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài g̣n) Nghiêm Thẩm
Chữ Thời
Kim Định
Cà Mâu xưa và An Xuyên nay Nguyễn văn Lương
Chu dịch Phan bội
Châu
Cổ sử (tài liêu giảng khoá Đ.H.V.K. Sài g̣n) Saurin
Cổ kim chú Thôi
Báo
Connaissance du Vietnam P.Huard et M.Durand
Đại Việt thông sử Lê quí
Đôn
Đại Nam nhất thống chí Quốc Sử Quán
Đại Nam thực lục tiền biên Quốc
Sử Quán
Đại Nam thực lục chánh biên Quốc Sử Quán
Đại Nam chánh biên liệt
truyện Quốc Sử Quán
Đại Việt sử kư toàn thư Ngô sĩ Lyên
Dương sự thuỷ
mạt Quốc sử quán
Điều trần Nguyễn trường Tộ
Dă sử Xuân phong Hồ đắc Ư
Đông kưnh nghĩa thục Đào trinh Nhất
Dân tộc miền nam tây nguyên Jacques
Dourmes
Dân tộc học Cardière
Đề cương văn hoá Việt Nam Đảng cộng sản
Việt Nam công bố 1943
Đại cương về văn học sử Việt Nam Nguyễn khánh Toàn
Decent Interval Frank Snepp
Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et
Latinum Alexandre de Rhodes
Đối chiếu tiếng Hán Việt và tiếng Bắc Kinh Phạm
văn Hải
Gia Định thành thông chí Trịnh hoài Đức
Góp phần vào sự nghiên
cứu một vị
thành hoàng Việt Nam, Lư phục Man Nguyễn văn Huyên
Hán Việt
thành ngữ Bửu Cân
Hà thành thất thủ chí công quá ca
(Hà thành chính khí
ca) Nguyễn văn Giai
Hạnh thục ca Nguyễn nhược Thị
Huấn địch Thập Điều
Thánh dụ vua Thánh Tổ (Nguyễn)
Diễn nghĩa vua Dực Tông (Nguyễn)
Hậu
Hán thư Phạm Việp
Histoire ancienne des peuples de
l'Orient classique
Maspéro, Gaston
Historic documents of 1975 Elizabeth Wehr
Histoire
ancienne des etats Hindouises
d'extreme Orient G. Coedes
La Chine
antique Maspero, Henry
Lịch sử văn học Việt Nam
Văn học dân gian Chu
xuân Diên
Lược khảo về thần thoại Việt Nam và
Việt Nam cổ văn học sử
Nguyễn đổng Chi
Lĩnh Nam Trích Quái Vũ Quỳnh và Kiều Phú
Lạc Thư Minh
Triết Kim Định
Lịch Sử Nhật Bản Thích thiện Ân
Le Peuple Vietnamien
Levy, Paul
Lịch sử Việt Nam Khoa học xă hội
Hà NộI xuất bản
Le
dossier du Pentagone E.W.Kenworthy and Fox Butterflield
L'empire d'Annam
Gosselin
Le Vietnam Philippe Devillers
Les Origines du Tonkưn J.
Dupuis
Les philosophies de l'Inde H.Zimmer
Miến Điện Nguyễn bích Lyên
Memoire historique sur le Tonkưn Gaubil
Monde en collision ĐVelikovsky
Memoire sur la Cochinchine Benique Vachet
Nhật Bản tư tưởng sử Ishi Dakzu Yoshi
(Châm vũ Nguyễn văn Tần: dịch)
Nguyễn Trường Tộ et son temps Đào đăng Vĩ
Nguyễn Triều Long Hưng sự tích
Trần văn Tuân
Nguyễn Trăi toàn tập Uỷ ban khoa học xă hội Việt Nam,
viện
sử học, Hà nội xuất bản
Nguyễn trường Tộ Nguyễn Lân
Nam sử liệt truyện
Lê thúc Thông
Nhân chủng
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K Sàig̣n) Paris ấn
hành (Vernon)
New light on a forgotten past W.G.Solheim II
No exit from
Vietnam Sir Robert Thompson
Notice historique sur la Cochinchine
Gaubil
Our Vietnam night mare Marguerite Higgins
Phủ Biên Tạp Lục Lê quư
Đôn
Pháp chế sử
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K. Sàig̣n) Vũ quốc Thông
Phan Đ́nh Phùng Đào trinh Nhất
Qua thực tiễn văn nghệ
kháng chiến Nam bộ Lưu quư Kỳ
Reviewing world history AMCO
School
publication Inc.
Revolutionary
thought from Marx to Mao Công ḥa Nhân
dân Trung quốc ấn hành
Recherches archeologiques en Indochine Đại học
Harvard
Relation sur le Tonkưn Baldinotti
Relatione della provincia del
Giappone Antonio Francisco Cardim
Sơ Lược Về Ảnh Hưởng Trung Hoa
Trong Tiếng Việt Phạm văn Hải
Sử ta so với sử Tàu Nguyễn văn Tố
Sử kư Tư
mă Thiên
Sociologie d'une guerre Paul Mus
South East Asia
Guy Hunter
Thư tịch
(tài liệu giảng khoá Đ.H.V.K.Sàig̣n) Bửu Cầm
Trước Thời Bắc Thuộc
Người Việt Đă Có Chữ Viết Chưả Phạm văn Hải
Tư
Tưởng Đông Tây Khái Luận Nguyễn phút Tấn
Tự Điển Chữ Nôm Nguyễn Quang Xỹ và
Vũ Văn Kính
Từ Điển Việt Hán Bắc Kinh xuất bản
Tỉnh Bến Tre Nguyễn Duy
Oanh
Trung kỳ dân biến th́ mạt kư Phan Chu Trinh
Tây phù nhật kư Phạm
Phú Thứ
Tự phán Phan Bội Châu
Tân An ngày xưa Đào văn Hội
Thanh Hoá
quan phong Vương duy Trinh
Tục ngữ phong dao Nguyễn văn Ngọc
The birth of Vietnam Taylor, Keith Weller Berkeley: University
of
California press
Tư tưởng và học thuật Lương Khải Siêu
Trung quốc
dân tộc học Vương đồng Lynh
Trung quốc thông sử Chu cốc Thành
The
Influence of T'ang Poetry
on Vietnamese Poetry Written
in Nôm
Characters and in the
Quốc Ngữ writing system Phạm văn Hải
Thông Chí
Trịnh Tiều
The ancient history of China to the end
of the Chou
Dynasty Đại học Columbia Newyork
The two Viet Nams Bernard.B.Fall
The
last Confucian Denis Warner
The irony of Vietnam:
the system worked
Leslie H.Gelb with Richard K.Betts
Texte et commentaire du miroir
comple
de l'histoire du Viet M.Durand
Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim
Việt Nam
phong sử Nguyễn văn Mại
Việt Nam phong tục Phan kế Bính
Việt Nam văn học
sử
giản lược tân biên Phạm thế Ngũ
Việt Nam Pháp thuộc sử Phan Khoang
Việt Nam văn minh sử Lê văn Siêu
Việt Nam văn học sử (1802 1945) Phạm văn
Hải và
Phạm quân Khanh
Việt kưều ở Kampuchia Lê Hương
Việt Nam văn
học toàn thư Hoàng trọng Miên
Việt Nam tổ quốc tuư ngôn Nguyễn hữu Tiến và
Nguyễn trọng Thuật
Việt Điện u linh tập Lư Tế Xuyên
Việt sử Thông giám
cương mục Lư Tế Xuyên
Việt sử toàn thư Phạm văn Sơn
Việt lư tố nguyên
Kim Định
Việt Nam Phật giáo sử T.T.Mật Thể
Việt Nam văn học sử yếu Dương
quảng Hàm
Việt Nam văn hóa sử cương Đào duy Anh
Việt Nam máu lửa Nghiêm
kế Tổ
Vân đài loại ngữ Lê quư Đôn
Vietnamese architecture
Nguyen quang Nhac
Nguyen nang Dac
Vietnamese tradiction
on trial,
1920 1945 Marr.David.G.
Berkeley: University of California press
Viet
Nam Marvin E.Gettleman
Viet Nam witness Bernard B.Fall
Vietnam diary
Richard Tregaskưs
Vietnam, history of Encyclopaedia Britannica
William
Benton, Publisher 1943 73) (Helen H.Benton, Publisher 1973 74)
Vietnam
Encyclopedia of the third world (by: George Thomas Kurian)
Xă hội học Bửu
Lịch
Quốc Hiệu |
Từ
đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đă định cư chắc chắn ở
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sống chủ
yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống
chủ yếu ở miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu
Việt sống xen kẽ với nhau, bên cạnh các thành phần dân cư khác.
Do nhu cầu trị
thuỷ, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hoá
ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng tập
hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang
hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất
cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên nước. |
Văn Lang -
Tồn tại 2.671
năm (2.876 trước CN -258 trước CN)
Văn Lang, tự
xưng là vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương và con cháu ông nhiều đời về
sau vẫn nối truyền danh hiệu đó.
Căn cứ vào các tài liệu sử học, có thể tạm xác định địa bàn nước Văn
Lang tương ứng với vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ nước ta hiện nay cùng
với một phần phía nam Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc).
_____________________________________________ |
Âu Lạc -
Tồn tại
50 năm (257
trước CN - 207 trước CN)
Năm 221 TCN, Tần Thuỷ Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các nhóm
người Việt. Thục Phán - thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt - được
tôn làm người lănh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 TCN, quân Tần
phải rút lui. Với uy thế của ḿnh, Thục Phán xưng vương (An Dương
Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước
Âu Lạc.
Năm 179
TCN, Triệu Đà - vua nước Nam Việt - tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc
kháng cự của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ tiếp đó, mặc dù
các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta thành
nhiều châu, quận với những tên gọi khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn
không xoá nổi cái tên "Âu Lạc" trong ư thức, t́nh cảm và sinh hoạt
thường ngày của nhân dân ta.
_____________________________________________ |
Vạn Xuân -
Tồn tại
58 năm (544-602)
Mùa
xuân năm 542, Lư Bí khởi nghĩa đánh đuổi quân Lương, giải phóng lănh
thổ. Tháng 2-544, Lư Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là
Vạn Xuân,
khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất
nước được bền vững muôn đời.
Chính quyền Lư Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào ṿng đô hộ của các
triều đại phong kiến Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân bị
vùi dập và chỉ được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán
bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.
_____________________________________________ |
Đại Cồ Việt -
Tồn tại 86 năm (968-1054)
Năm
968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, lên
ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là
Đại Cồ Việt
(nước
Việt lớn). Quốc hiệu này duy tŕ suốt đời Đinh (968-979), Tiền Lê
(980-1009) và đầu thời Lư (1010-1053).
_____________________________________________ |
Đại Việt
-
Tồn tại
748 năm (1054-1804)
Năm
1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói
nhiều ngày mới tắt, nhà Lư liền cho đổi tên nước là
Đại Việt
và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần..
Sau
10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi
toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là
Đại Việt
(lănh thổ nước ta lúc này về phía Nam đă tới Huế).
Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời
Tây Sơn (1788-1804).
_____________________________________________ |
Đại Ngu -
Tồn
tại 7 năm (1400-1406)
Tháng
3-1400, Hồ Quư Ly phế Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước
thành
Đại Ngu
("ngu" tiếng cổ có nghĩa là "sự yên vui"). Quốc hiệu đó tồn tại đến
khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4 -1407).
_____________________________________________ |
Việt Nam -
Tồn tại
80 năm (1804-1884)
Năm
1802,
Nguyễn Ánh
đăng quang, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên nước là
Việt Nam,
Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao để trở
thành chính thức vào năm 1804. Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại
thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ cuối thế kỷ
14 đă có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí do trạng nguyên Hồ Tông
Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trăi (đầu thế kỷ 15) nhiều
lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này c̣n được đề cập rơ ràng
trong những tác phẩm của trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585),
chẳng hạn ngay trang mở đầu tập Tŕnh tiên sinh quốc ngữ đă có câu:
"Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng t́m thấy hai chữ "Việt Nam"
trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở
Hải Pḥng, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây, bia chùa Phúc Thành (1664)
ở Bắc Ninh.... Đặc biệt bia Thuỷ Môn Đ́nh (1670) ở biên giới Lạng Sơn
có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngơ yết
hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ư nghĩa,
phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai
yếu tố: chủng tộc và địa lư (người Việt ở phương Nam).
_____________________________________________
Đại Nam -
Tồn
tại trên lư thuyết 107 năm (1838-1945)
Đến
đời vua Minh Mạng (1820-1840), quốc hiệu được đổi thành
Đại Nam.
Dù vậy, hai tiếng "Việt Nam" vẫn được sử dụng rộng răi trong các tác
phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xă hội.
_____________________________________________ |
Việt Nam
Ngày
19-8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống
trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 2-9-1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Suốt 30 năm tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia
cắt, hai tiếng "Việt nam" vẫn được phổ biến từ Bắc chí Nam và trở
thành thân thiết, thiêng liêng với mọi người.
Ngày
30-4-1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối. Ngày
2-7-1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất,
toàn thể Quốc hội đă nhất trí lấy tên nước là
Cộng hoà Xă hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Hiến pháp năm 1980 và hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu
đó, đưa nó trở thành chính thức cả về pháp lư lẫn trên thực tế. |
|