Nhà thơ Hữu Loan và mối t́nh mang "màu tím hoa sim"
Vào một ngày cuối năm 2003, dưới tán lá cây
bồ đề trong vườn nhà ông, dưới chân núi Văn Lỗi của làng Văn Hoàn (xă Nga
Lĩnh, huyện Nga Sơn, cách TP Thanh Hóa chừng 50 km), bên chiếc chơng tre
cũ kỹ, nhà thơ Hữu Loan đă kể cho tôi nghe về mối t́nh lăng mạn nhưng cũng
hết sức bi thương của ông - mối t́nh đă làm nên bài thơ nổi tiếng màu tím
hoa sim.
Hữu Loan sinh năm 1914, trong một gia đ́nh tá điền. Không được đến trường,
chỉ học bữa được bữa không tại nhà do người cha dạy dỗ. Bù lại, ông có tư
chất rất thông minh. Người làng Văn Hoàn kể rằng vào khoảng năm 1938, Hữu
Loan vác lều chơng ra Hà Nội đua tài. Số đỗ kỳ thi ấy thật hiếm hoi. Cùng
đỗ với Hữu Loan c̣n có Nguyễn Đ́nh Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ
Thiện... Năm 24 tuổi. Hữu Loan rời quê nhà lên TP Thanh Hóa dạy học. Lúc
bấy giờ, ở TP Thanh Hóa có cửa hàng bán vải và bán sách của bà Tham Kỳ (tên
thật là Đái Thị Ngọc Chất, vợ của ông Lê Đỗ Kỳ - kỹ sư canh nông, có thời
làm Tổng Thanh tra canh nông Đông Dương, sau này là đại biểu Quốc hội khóa
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa). Hữu Loan thường lại xem và
mua sách và trở thành gia sư cho người con trai cùng cô con gái yêu của
gia đ́nh bà là Lê Đỗ Thị Ninh, lúc ấy mới tám tuổi.
Hữu Loan kể: "Lần đầu tiên tôi tới nhà, bà Chất phải gọi măi cô bé Ninh
mới chịu ra khoanh tay chào thầy, miệng nói lí nhí: "Em chào thầy ạ!".
Chào xong cô bé bất ngờ mở to mắt nh́n thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy,
tṛn xoe như có ánh chớp ấy đă hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả
cuộc đời. Thế là từ hôm ấy, tôi dạy em đọc, viết. Em là một cô bé thông
minh, ít nói và mỗi lần mở miệng là giống y như một "bà cụ". Có lần tôi kể
chuyện này cho hai người anh của em nghe. Không ngờ câu đùa ấy đến tai em.
Thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm ĺ ở buồng trong, không chịu học
hành. Trước đó, hằng ngày em vẫn chăm sóc tôi một cách rất thầm kín. Lúc
th́ đặt vào góc mâm chỗ tôi ngồi ăn một vài quả ớt đỏ au em vừa hái ở vườn,
lúc th́ quả chanh mọng nước... Những buổi trưa hè, khi tôi ngủ trưa, em
lén lấy chiếc áo sơ mi trắng của tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt".
Một hôm, em nằng nặc đ̣i tôi đưa em lên khu rừng thông. Tôi sợ em lại dỗi
nên đánh liều xin với ông bà Tổng Thanh tra cho đưa em lên núi chơi. Xe
kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con
sóc. Tôi đuổi theo em đến đứt cả hơi. Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và
bảo tôi: "Thầy ngồi xuống đi!". Tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi cứ ngồi
thế và chẳng nói ǵ. Bất chợt em nh́n tôi, rồi ngước mắt nh́n ra tít tận
chân trời. Không hiểu lúc đó em nghĩ ǵ. Bỗng em hỏi tôi: "Thầy có thích
ăn sim không?". Tôi nh́n xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên
và đi xuống sườn đồi. Tôi mệt quá và nằm thiếp đi trên thảm cỏ. Khi tỉnh
dậy, tôi thấy em đă ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim
đen nhánh, chín mọng. "Thầy ăn đi!". Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên
miệng. "Ngọt quá!" - tôi trầm trồ. Tôi sinh ra trong một gia đ́nh nông dân.
Quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm ǵ nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được
ăn những quả sim ngọt đến thế. Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này tới quả
khác. Tôi ngước nh́n em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ
tím, hai bên má th́ tím đỏ: một màu... sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười
theo...
Cuối mùa đông năm ấy, tôi lên đường đi kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em cứ
theo măi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nh́n theo. Tôi đi... Lên đến bờ
đê, nh́n xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn
tay nhỏ xíu như chiếc lá sim vẫy tôi. Tôi đi... Tôi quay đầu nh́n lại...
Tôi lại đi và nh́n lại cho tới khi không c̣n nh́n thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê
lên, tôi biết em vẫn khỏe và đă khôn lớn. Chín năm sau, tôi trở lại nhà...
Về Nông Cống t́m em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều
nhưng em không nói, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không c̣n là
cô học tṛ Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đă 16 tuổi, đă là một cô gái xinh
đẹp. Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Đám cưới thật đơn sơ:
"Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bụi đất hành quân
nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo".
Khỏi phải nói chúng tôi hạnh phúc như thế nào. Hai tuần phép của tôi trôi
đi nhanh quá. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi tám năm
về trước em đă đứng. Chỉ có điều giờ đây em không c̣n là cô bé Ninh nữa mà
đă là người bạn đời yêu quư của tôi. Tôi đi, tôi lại quay đầu nh́n lại...
Nếu như tám năm về trước tôi đi, tôi nh́n lại và chỉ cảm thấy một nỗi buồn
man mác th́ lần này tôi thực sự đau buồn. Đôi chân tôi như quỵ xuống... Em
cũng như quỵ xuống...
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: Vợ tôi qua đời. Em chết thật thảm
thương! Hôm đó là ngày 29-5 âm lịch năm 1948. Em đưa quần áo ra giặt ở
sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống). Đang giặt em trượt chân. Con
nước lớn đă cuốn em vào ḷng nó, cướp đi của tôi người bạn đời tri kỷ, để
lại cho tôi nỗi đau không ǵ có thể bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, hơn 60 năm
qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi...
Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong ḷng. Tôi như một cái xác không hồn.
Dường như nỗi đau càng bị ḱm nén th́ càng dữ dội hơn. May sao sau đó có
đợt chỉnh huấn. Cấp trên bảo ai có tâm tư ǵ th́ cứ nói ra, nói cho hết.
Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Chẳng cần phải suy
nghĩ ǵ, những chuyện mộc mạc cứ trào ra:
"Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh...
Tôi về
không gặp nàng...".
Theo Pháp luật TPHCM